Cập nhật ngày: 28/07/2014

Giáo dục và đào tạo là yếu tố quyết định chất lượng nguồn nhân lực, đặc biệt là nhân lực chất lượng cao. Trong hệ thống giáo dục đào tạo nói chung, hệ thống dạy nghề nói riêng, giáo viên đóng vai trò quyết định trực tiếp đến chất lượng đào tạo, điều đó đã được khẳng định trong chiến lược phát triển dạy nghề, coi phát triển đội ngũ giáo viên dạy nghề là một trong những giải pháp trọng tâm quyết định đến sự phát triển và nâng cao chất lượng dạy nghề. Chính vì vậy, muốn nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, trước hết phải nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo nói chung, giáo viên dạy nghề nói riêng.

 

Năm 2013 cả nước có gần 40 giáo viên dạy nghề


Ở Việt Nam, đội ngũ giáo viên dạy nghề (GVDN) được đào tạo chính quy chủ yếu từ các trường đại học sư phạm kỹ thuật (ĐHSPKT). Tuy nhiên, các trường này chủ yếu dựa vào khung thời gian quy định cho mỗi chương trình để tổ chức đào tạo cũng như yêu cầu về mức độ năng lực đối với người học sao cho không vượt quá khung thời gian quy định. Với phương thức đào tạo như vậy, người học luôn bị thúc ép về thời gian, cứ hết thời gian quy định cho nội dung trong chương trình là người học phải chuyển sang nội dung khác, kể cả khi họ chưa đạt được tiêu chuẩn quy định đối với nội dung đó. Trong khi quá trình đào tạo GVDN dựa vào khung thời gian thì các cơ sở dạy nghề (nơi sử dụng đội ngũ GVDN) đang chuyển mạnh từ đào tạo theo niên chế sang đào tạo theo mô-đun không quan tâm nhiều đến thời gian đào tạo như trước. Họ quan tâm đến người học có thực hiện được các công việc nghề nghiệp theo tiêu chuẩn của họ hay không. Vì vậy, đội ngũ GVDN hiện nay chưa đáp ứng được yêu cầu sử dụng cả về số lượng, chất lượng và cơ cấu ngành nghề đào tạo và năng lực thực hiện nhiệm vụ. Để nâng cao chất lượng đào tạo GVDN, đòi hỏi các trường đại học sư phạm kỹ thuật nơi đào tạo GVDN phải đổi mới phương pháp đào tạo, dựa vào tiêu chuẩn đầu ra, có nghĩa là dựa vào tiêu chuẩn năng lực thực hiện (NLTH) của GVDN cần được thỏa thuận và thống nhất với các cơ sở sử dụng đội ngũ GVDN để xây dựng chương trình, tổ chức đào tạo và đánh giá kết quả đào tạo.

Về thực trạng đội ngũ giáo viên dạy nghề và tổ chức đào tạo GVDN


Để có cơ sở đổi mới quá trình đào tạo giáo viên dạy nghề theo chuẩn năng lực thực hiện, chúng ta phân tích khái quát thực trạng đội ngũ giáo viên dạy nghề và thực trạng đào tạo đội ngũ GVDN hiện nay, cụ thể là:             

- Về thực trạng đội ngũ giáo viên dạy nghề:  Trong những năm qua, cùng sự nghiệp phát triển dạy nghề, đội ngũ GVDN tăng nhanh về số lượng, năm 2013 có khoảng 39.500 GVDN, tăng gần 5 lần so với 2001, trong đó GVDN ở các trường cao đẳng nghề là 14.350, các trường trung cấp nghề 10.950, các trung tâm dạy nghề là 14.200. Với tổng số giáo viên dạy nghề hiện có, tỷ lệ giáo viên dạy tích hợp chỉ chiếm khoảng 51%. Mặc dù số lượng GVDN, cũng như tỷ lệ giáo viên dạy nghề dạy được tích hợp những năm qua tăng đáng kể, nhưng so với yêu cầu đổi mới và phát triển dạy nghề, số lượng GVDN vẫn còn thiếu trầm trọng. Thật vậy, theo Chiến lược phát triển dạy nghề, đến năm 2015 cần có 51.000 GVDN và đến năm 2020 có 77.000 GVDN. Như vậy, từ nay đến 2020 mỗi năm phải đào tạo trung bình khoảng 6.400 GVDN cho các nghề và ở các cấp trình độ. Về chất lượng đội ngũ GVDN, chất lượng đội ngũ GVDN trong những năm qua đã có chuyển biến tích cực, số giáo viên đạt chuẩn về kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm và kỹ năng nghề ngày càng tăng. Trình độ ngoại ngữ, tin học và khả năng nghiên cứu khoa học được cải thiện. Một bộ phận GVDN được đào tạo về nghiệp vụ sư phạm và kỹ năng nghề theo tiêu chuẩn quốc tế. Số GVDN có trình độ thạc sĩ, tiến sĩ ngày càng tăng. Tuy nhiên, để đáp ứng tốt với với yêu cầu đổi mới dạy nghề, chất lượng đội ngũ GVDN còn bộc lộ nhiều hạn chế yếu kém. Nhiều GVDN chưa đạt chuẩn về kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm và kỹ năng nghề. Khả năng sử dụng tin học, ngoại ngữ cũng như cập nhật công nghệ mới, ứng dụng tin học và các phương pháp dạy học hiện đại, phát triển chương trình, biên soạn giáo trình, tài liệu dạy nghề còn hạn chế. Số GVDN có khả năng dạy tích hợp không nhiều trong khi đó hầu hết các chương trình đào tạo nghề hiện nay đã được cấu trúc theo mô-đun đòi hỏi phải tổ chức dạy tích hợp. Hiện nay ngành dạy nghề đang triển khai đào tạo một số nghề đạt chuẩn khu vực, quốc tế, trong đó chương trình đào tạo sẽ được nhập khẩu từ các nước tiên tiến, giáo viên dạy nghề được cử đi đào tạo nâng cao nghiệp vụ sư phạm và kỹ năng nghề đạt chuẩn của một số nước tiên tiến trong khu vực và quốc tế. Điều đó có nghĩa là đội ngũ giáo viên dạy những nghề trên phải đạt chuẩn quốc tế về kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm, kỹ năng nghề và đặc biệt là khả năng sử dụng ngoại ngữ, tin học. Tuy nhiên, đội ngũ GVDN hiện nay để đạt được chuẩn khu vực và quốc tế là hết sức khó khăn và tốn kém. Về cơ cấu ngành nghề của GVDN, cơ cấu ngành nghề của GVDN chưa hợp lý, GVDN chủ yếu tập trung ở các nhóm nghề đào tạo truyền thống như điện, điện tử, cơ khí, công nghệ ô tô, hàn, tin học, may mặc….các nhóm nghề đào tạo ở lĩnh vực nông - lâm - ngư, xây dựng, dịch vụ vận tải...còn thiếu giáo viên và chưa có giáo viên được đào tạo cơ bản, kỹ năng nghề còn hạn chế, tỷ lệ giáo viên dạy tích hợp còn thấp so với yêu cầu của chương trình đào tạo nghề.

- Về thực trạng đào tạo đội ngũ GVDN: Về mô hình đào tạo GVDN hiện nay, đội ngũ GVDN đang được đào tạo theo 2 mô hình là mô hình song song (kết hợp giữa đào tạo kiến thức chuyên môn, kỹ năng nghề với nghiệp vụ sư phạm trong suốt khóa học) và mô hình nối tiếp (đào tạo kiến thức chuyên môn và kỹ năng nghề trước sau đó sẽ đào tạo nghiệp vụ sư phạm). Việc tổ chức đào tạo GVDN theo mô hình nối tiếp giúp tăng nhanh quy mô để đáp ứng nhu cầu về số lượng và cơ cấu ngành nghề của GVDN. Tuy nhiên, chất lượng đào tạo GVDN theo mô hình này có những hạn chế, bất cập đặc biệt là hạn chế về năng lực sư phạm của sinh viên do thời gian đào tạo phần này ngắn. Đào tạo theo mô hình song song có ưu điểm là nâng cao được chất lượng đào tạo, tuy nhiên nó lại hạn chế trong việc tăng quy mô và chuyển dịch cơ cấu đào tạo GVDN theo cơ cấu đào tạo nghề. Về cơ cấu ngành nghề đào tạo GVDN, hiện nay có khoảng 450 danh mục nghề đào tạo ở trình độ trung cấp nghề và trên 400 danh mục nghề đào tạo ở trình độ cao đẳng nghề, tuy nhiên, các ngành đào tạo GVDN ở các trường ĐHSPKT chỉ mới đáp ứng được khoảng 10% so với cơ cấu đào tạo nghề. Về chương trình và tổ chức đào tạo GVDN, hiện nay chương trình đào tạo giáo viên dạy nghề được xây dựng dựa trên chương trình khung theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Mặc dù quan điểm xây dựng chương trình là tiếp cận mục tiêu (tiếp cận đầu ra), tuy nhiên, trong thực tế triển khai hầu hết các chương trình được xây dựng theo tiếp cận nội dung và chưa dựa trên kết quả phân tích nghề hoặc tiêu chuẩn năng lực thực hiện. Các chương trình chi tiết vẫn được cấu trúc theo hệ thống môn học với hệ thống các phần, chương, bài diễn tả nội dung học vấn. Các khối kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp được cấu trúc theo các môn lý thuyết và thực hành tách rời riêng biệt. Mục tiêu chương trình không cụ thể và thiếu khả năng đo lường, đánh giá. Mặt khác nội dung chương trình chưa thể hiện rõ các NLTH mà SV phải đạt được sau quá trình đào tạo, các bài học trong chương trình chủ yếu trình bày hệ thống kiến thức của môn học hơn là việc hướng đến hình thành các NLTH cho sinh viên. Về tổ chức đào tạo, hiện nay việc đào tạo lý thuyết và thực hành được tổ chức tách rời nhau về cả thời gian và địa điểm, thông thường các bài học lý thuyết được dạy trước và các bài học thực hành được dạy sau và ít gắn với các công việc cụ thể của nghề.

Đổi mới đào tạo giáo viên dạy nghề theo hướng tiếp cận năng lực thực hiện

Với những bất cập của thực trạng đội ngũ giáo viên dạy nghề và thực trạng đào tạo đội ngũ giáo viên dạy nghề hiện nay đòi hỏi các trường đại học sư phạm kỹ thuật phải đổi mới quá trình đào tạo GVDN theo năng lực thực hiện là hết sức cần thiết, cụ thể những nội dung cần đổi mới là:

Thứ nhất là đổi mới mục tiêu đào tạo GVDN theo NLTH: Trong đào tạo theo niên chế, người ta tập trung vào đào tạo những kiến thức, kỹ năng cơ bản tương ứng với từng khoa học. Điều này giúp người học có hiểu biết rộng, lôgíc và hệ thống. Tuy nhiên, việc đào tạo kiến thức tách rời với kỹ năng cả về thời gian và địa điểm làm cho chúng ít có sự gắn kết. Hơn nữa việc đào tạo kiến thức và kỹ năng ít gắn với các công việc nghề nghiệp làm cho chúng ít có ý nghĩa đối với người học. Đào tạo theo NLTH định hướng và chú trọng vào kết quả, đầu ra của quá trình đào tạo, nó quan tâm đến từng người học có thể làm được việc gì trong một tình huống nghề nghiệp nhất định theo tiêu chuẩn đề ra. Với cách tiếp cận này, mục tiêu của đào tạo GVDN là hình thành ở người học các năng lực để họ thực hiện công việc của người GVDN theo các tiêu chuẩn nghề nghiệp.

Thứ hai là đổi mới nội dung, chương trình đào tạo GVDN theo NLTH: Chương trình đào tạo GVDN theo NLTH là chương trình được xây dựng dựa trên tiếp cận mục tiêu. Mục tiêu ở đây được thể hiện dưới dạng các tiêu chuẩn đầu ra chính là các NLTH của GVDN. Để xây dựng chương trình, trước tiên phải xác định được các NLTH mà người học cần đạt được (hồ sơ năng lực của GVDN); chúng được coi như­­­­ là kết quả, đầu ra của quá trình đào tạo. Có nhiều cách khách nhau để xác định các NLTH của GVDN, cách phổ biến nhất là phân tích nghề (occupational analysis) và phân tích chức năng của GVDN. Đây thực chất là xác định mô hình hoạt động của GVDN, cụ thể là xác định các nhiệm vụ (duties), công việc (tasks) mà người GVDN phải thực hiện tại vị trí việc làm. Kết quả của quá trình phân tích nghề là sơ đồ DACUM (DACUM Chart), một sơ đồ biểu diễn hệ thống các nhiệm vụ và công việc của GVDN tại vị trí việc làm. Sơ đồ này là căn cứ xác định các NLTH của GVDN để đưa vào chương trình đào tạo. Các NLTH mà người học sẽ tiếp thu trong quá trình đào tạo được trình bày dưới dạng công việc mà GVDN phải thực hiện tại vị trí việc làm và được công bố cho người học biết trước khi vào học. Chương trình đào tạo được cấu trúc theo các mô đun NLTH, có sự tích hợp giữa kiến thức chung, kiến thức chuyên ngành và kỹ năng nghề; tích hợp giữa kiến thức, kỹ năng nghề và nghiệp vụ sư phạm dạy nghề dựa trên yêu cầu về sự thực hiện công việc của người GVDN. Chương trình phải có phần cứng và phần mềm, có các mô đun bắt buộc và mô đun tự chọn, các mô đun này có thể thay đổi hoặc bổ sung theo yêu cầu thay đổi của kỹ thuật, công nghệ, tổ chức sản xuất và thị trường lao động. Chương trình đào tạo được thiết kế theo hướng mở, linh hoạt, tạo điều kiện thuận lợi cho việc học theo nhịp độ riêng của từng cá nhân. Người học được phép tích luỹ tín chỉ về những gì đã học trước đó, không phải học lại những điều đã học một khi được công nhận là đã thông thạo, có khả năng thực hiện chúng theo tiêu chuẩn quy định. Để đánh giá người học hoàn thành chương trình đào tạo chúng ta căn cứ vào sự thông thạo tất cả các năng lực ghi trong hồ sơ năng lực của GVDN và ghi cho chương trình đào tạo.

Thứ ba là đổi mới phương thức và phương pháp tổ chức đào tạo GVDN theo NLTH: Đào tạo dựa trên NLTH đặt trọng tâm vào việc giải quyết vấn đề, vào việc hình thành NLTH cho người học hơn là tập trung vào giải quyết nội dung chương trình. Vì vậy, phương thực và phương pháp đào tạo dựa trên NLTH thể hiện ở 2 khía cạnh: Đào tạo dựa trên công việc và đào tạo tại nơi làm việc. Trước hết là đào tạo theo công việc với triết lý cơ bản của phương pháp đào tạo theo NLTH là đào tạo theo công việc, có nghĩa là tất cả các công việc mà người GVDN thực hiện tại nơi làm việc đều được lựa chọn để đưa vào chương trình đào tạo GVDN. Tiếp theo là đào tạo tại nơi làm việc với phương pháp đào tạo GVDN trực tiếp tại nơi làm việc, trong đó người học sẽ học những kiến thức và kỹ năng cần thiết thông qua việc thực hiện các công việc của GVDN tại nơi làm việc dưới sự hướng dẫn của những giáo viên có kinh nghiệm. Các dạng đào tạo tại nơi làm việc thường bao gồm: Kèm cặp tại chỗ là cách thức tổ chức đơn giản nhất là trong quá trình thực hiện công việc người học sẽ được hướng dẫn bởi những GVDN lành nghề; có ba cách để kèm cặp là kèm cặp bởi người lãnh đạo trực tiếp, kèm cặp bởi cố vấn, kèm cặp bởi người quản lý có kinh nghiệm hơn. Luân chuyển công việc là phương pháp đào tạo giúp GVDN tương lai có những kiến thức và kinh nghiệm ở những lĩnh vực khác nhau. Những kinh nghiệm và kiến thức thu được trong quá trình đào tạo này sẽ giúp cho họ có khả năng thực hiện được những công việc cao hơn trong tương lai; luân chuyển công việc còn giúp học viên hiểu được cách thức phối hợp thực hiện công việc của các bộ phận khác nhau, làm gia tăng sự hiểu biết và xây dựng văn hóa tổ chức.

Thứ tư là đổi mới kiểm tra, đánh giá kết quả đào tạo GVDN theo NLTH: Đánh giá trong đào tạo theo NLTH là một quá trình đo lường, thu thập chứng cứ và đ­­­­ưa ra những phán xét về một NLTH nào đó đã đạt được hay chư­­­­a ở người học tại một thời điểm nhất định theo những yêu cầu thực hiện đã xác định trongtiêu chuẩn nghề. Việc đánh giá NLTH của người học trong quá trình đào tạo GVDN được thực hiện theo tiêu chuẩn, tiêu chí (criteria referenced assessment), nghĩa là nó đo sự thực hiện hay thành tích của một cá nhân người học trong mối liên hệ so sánh với các tiêu chuẩn, tiêu chí chứ không có liên hệ so sánh gì với sự thực hiện hay thành tích của người khác. Các tiêu chí đánh giá NLTH của GVDN được xác định từ quá trình phân tích nghề và phân tích chức năng của GVDN. Sự thông thạo các NLTH của người học được đánh giá và xác nhận theo các quan điểm sau: Người học phải thực hiện các công việc theo cách thức giống như­­­­ của GVDN thực hiện trong thực tế lao động nghề nghiệp; đánh giá riêng rẽ từng cá nhân người học khi họ hoàn thành công việc nghề nghiệp; kiến thức, thái độ liên quan đến việc thực hiện công việc đều được đánh giá để khẳng định các mức độ năng lực; các tiêu chuẩn dùng trong việc đánh giá là những yêu cầu đặt ra ở mức độ tối thiểu để đảm bảo rằng sau khi học xong thì người học b­­ước vào làm việc được chứ không phải là để đem so sánh với những người học khác; trên cơ sở đó, người ta có thể công nhận các kỹ năng hoặc các kiến thức đã được thông thạo trước đó; chỉ khi nào người học đã ”đạt” tất cả các tiêu chuẩn đặt ra thì mới được công nhận đã học xong chương trình đào tạo; những tiêu chí và các điều kiện dùng để đánh giá kết quả học tập (NLTH) phải được trình bày và công bố công khai trước cho người học.

Thứ năm là đổi mới quản lý đào tạo GVDN theo NLTH: Khác với đào tạo theo niên chế, đào tạo theo NLTH là phương thức đào tạo mở, linh hoạt gắn với thực tế nghề nghiệp và nhu cầu người học; vì vậy, khi chuyển sang đào tạo theo NLTH đòi hỏi phải đổi mới căn bản về cơ chế quản lý, đặc biệt là đổi mới quản lý chương trình và tổ chức đào tạo, cụ thể là: Để xác định một người đã hoàn thành chương trình đào tạo, người ta căn cứ vào sự thông thạo được tất cả các NLTH đã xác định hồ sơ năng lực của GVDN; trong đào tạo theo NLTH người ta không đặt ra yêu cầu về thời lượng dành cho học tập bởi vì người học có thể học theo khả năng và nhịp độ của riêng mình, không phụ thuộc vào người khác, miễn là đủ thời gian để thông thạo được các NLTH; điều đó cho phép người học có thể vào học và kết thúc việc học ở các thời điểm khác nhau; hồ sơ học tập của từng cá nhân và của tất cả mọi người học được l­ưu trữ đầy đủ; người học có thể học chuyển tiếp hoặc ra khỏi chương trình học không cần học lại những NLTH đã thông thạo rồi nhờ có hệ thống các tín chỉ đã được cấp trước đây; việc đánh giá kết quả học tập của người học dựa vào các tiêu chuẩn thực hiện (performance standard); các tiêu chuẩn thực hiện được xác định chủ yếu từ các tiêu chuẩn nghề; chỉ khi nào người học đã ”đạt” tất cả các tiêu chuẩn đặt ra thì mới được công nhận đã học xong chương trình đào tạo.

Tóm lại đào tạo theo NLTH là phương thức đào tạo dựa trên tiêu chuẩn quy định cho một nghề và đào tạo theo các tiêu chuẩn đó. Phương thức này có nhiều ưu điểm trong việc đào tạo đội ngũ GVDN đáp ứng nhu cầu sử dụng do nó thiết lập được tiêu chuẩn chung giữa bên cung (các cơ sở đào tạo GVDN) và bên cầu (các cơ sở sử dụng GVDN) nhờ thiết lập hệ thống tiêu chuẩn NLTH dựa trên sự thỏa thuận và thống nhất giữa các bên. Việc chuyển sang đào tạo theo NLTH là thay đổi cả phương thức đào tạo đòi hỏi phải đổi mới cơ bản về mục tiêu, nội dung chương trình, phương thức và phương pháp đào tạo, hệ thống kiểm tra - đánh giá và cơ chế quản lý theo hướng mở và chuẩn hóa nhằm đáp ứng tốt nhu cầu sử dụng giáo viên dạy nghề trong hệ thống dạy nghề của Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế.
 

TS. Nguyễn Hồng Minh
Hiệu trưởng Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Vinh