Cập nhật ngày: 15/05/2015

Xu thế hội nhập đòi hỏi nâng cao năng lực cho nguồn lực lao động, tăng cường sự cạnh tranh trong khu vực và trên trường quốc tế. Để thực hiện điều đó cần phát triển đào tạo nghề, nâng cao hơn nữa chất lượng và hiệu quả đào tạo nghề. Trong giai đoạn "cơ cấu dân số vàng" hiện nay, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực lao động qua đào tạo nghề có thể tạo nên những bước đột phá trong quá trình phát triển. Trong đó, vai trò của người Giáo viên dạy nghề (theo tên gọi của Luật Dạy nghề), Nhà giáo trong cơ sở giáo dục nghề nghiệp (theo Luật Giáo dục nghề nghiệp) mang tính quyết định. 

Thực tế cho thấy sự tác động của chính sách đối với nhà giáo giảng dạy nghề nghiệp (GDNN) có vai trò quan trọng và ảnh hưởng lớn đến chất lượng đào tạo. Chính sách không chỉ giữ vai trò định hướng mà còn tạo khuôn khổ pháp lý, tạo động lực và điều chỉnh hành vi, hoạt động giảng dạy của nhà giáo GDNN. Do đó chính sách cần phải cụ thể, rõ ràng, có tính khả thi, phù hợp với đối tượng và điều kiện thực tế.
 
Tuy nhiên các chính sách cho nhà giáo GDNN ở Việt Nam hiện nay vẫn còn nhiều điều cần phải tiếp tục được hoàn thiện mới đáp ứng được yêu cầu đào tạo nghề cả về số lượng và chất lượng như mục tiêu đã đề ra trong chiến lược phát triển dạy nghề đến năm 2020. 
 
Trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi chỉ phân tích một số nội dung của chính sách đào tạo bồi dưỡng nhà giáo GDNN hiện hành.
 
1. Hiện trạng chính sách đào tạo, bồi dưỡng nhà giáo GDNN tại Việt Nam
 
Rà soát lại các chính sách hiện hành trong hoạt động này, chúng tôi thấy nổi cộm một số vấn đề sau:
 
- Đối với chính sách đầu tư cho hoạt động đào tạo, bồi dưỡng
 
Đây được coi là điều kiện thiếu yếu để thực hiện việc nâng cao chất lượng cho đội ngũ nhà giáo GDNN theo yêu cầu thực tế hiện nay. Tuy nhiên trong hệ thống chính sách hiện hành mới chỉ định ra phương thức thực hiện mà chưa xây dựng định mức cho phép trong quá trình thực hiện. Thứ nữa, chính sách cũng chưa tính đến điều kiện thực tế trong việc tổ chức triển khai việc huy động nguồn lực đầu tư. Vì thế hiện nguồn lực này vẫn còn thiếu nhiều so với nhu cầu thực tế mà các Bộ, ngành, các đơn vị chủ quản và cơ sở đào tạo nghề chưa tìm được nguồn khai thác. Cho đến nay Việt Nam vẫn chưa có Quỹ hỗ trợ kĩ năng nghề cho giáo viên do nhà nước quản lý. Tính quy hoạch trong đầu tư chưa rõ ràng do quy hoạch hệ thống cơ sở dạy nghề chưa bám sát thực tế. 
 
- Đối với chính sách đổi mới đào tạo, bồi dưỡng giáo viên dạy nghề
 
Hầu hết các chính sách đào tạo, bồi dưỡng đều dựa trên các tiêu chuẩn đối với giáo viên giảng dạy tại các cơ sở dạy nghề theo từng trình độ đào tạo với  2 mô hình:
 
+ Mô hình nối tiếp: ưu tiên đào tạo chuyên môn và kĩ năng nghề, sau đó mới bổ sung nghiệp vụ sư phạm.
 
+ Mô hình song song: Kết hợp đào tạo kiến thức chuyên môn, kĩ năng nghề nghiệp với nghiệp vụ sư phạm trong quá trình đào tạo nguồn lực giáo viên nghề.
 
Hai mô hình đào tạo giáo viên nghề đã nêu trên đều có những điểm tích cực nhưng cũng bộc lộ một số nhược điểm. Theo chuẩn giáo viên nghề được quy định tại Thông tư 30/2010/TT- BLĐTBXH thì cả hai cách đào tạo trên đều khó đáp ứng. Nói cách khác, các chính sách ban hành chưa thể hiện sự đa dạng hóa trong đào tạo, bồi dưỡng đối với nhà giáo GDNN, chưa gắn kết, huy động sự tham gia đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn của các doanh nghiệp, các tổ chức đối với giáo viên dạy nghề.
 
Bên cạnh đó, các chính sách liên quan đến đào tạo, bồi dưỡng giáo viên còn thiếu cơ chế thu hút doanh nghiệp đào tạo, bồi dưỡng GVDN thực hành; Luật Dạy nghề mới chỉ quy định các doanh nghiệp có nghĩa vụ tiếp nhận đối với người học nghề tại các cơ sở đào tạo nghề có nhu cầu thực tập, chưa có quy định bắt buộc đối với doanh nghiệp trong việc tham gia nâng cao trình độ kĩ năng cho GVDN. Luật giáo dục nghề nghiệp đã quy định trách nhiệm của doanh nghiệp trong việc tiếp nhận giáo viên dạy nghề thực hành, nhưng chưa quy định mức độ chịu trách nhiệm và chế tài xử lý cũng như quyền lợi của doanh nghiệp với riêng vấn đề này.
 
- Trao quyền tự chủ cho cơ sở đào tạo, bồi dưỡng nhưng chưa đưa ra định mức đào tạo cho GVDN mỗi năm, chưa có quy định về kiểm tra, giám sát sử dụng kinh phí đào tạo, bồi dưỡng GVDN.
 
- Chưa đặt ra vấn đề đào tạo theo nhu cầu công việc, đào tạo theo vị trí việc làm, đào tạo tại chỗ.
 
- Chưa có những chính sách khuyến khích, động viên đối với giáo viên tự phấn đấu nâng cao trình độ.
 
- Chưa có quy định bắt buộc các Dự án lớn về đào tạo nghề phải lồng ghép chương trình đào tạo, bồi dưỡng giáo viên…
 
- Chưa có nhiều diễn đàn hợp tác quốc tế về nghiên cứu và triển khai trong lĩnh vực đào tạo giáo viên. Chưa có chính sách thu hút sự hỗ trợ từ các chuyên gia quốc tế trong việc đào tạo GVDN tại Việt Nam; Việc tăng cường trao đổi giáo viên giữa các cơ sở đào tạo nghề trong và ngoài nước còn hạn chế.
 
- Phương thức ĐTBD cho giáo viên dạy nghề còn chậm đổi mới.
 
- Chưa có chính sách về việc đào tạo lại giáo viên dạy nghề.
 
2. Kết quả thực hiện chính sách
 
Chính từ những bất cập của hệ thống chính sách đào tạo, bồi dưỡng nhà giáo GDNN dẫn đến những quan ngại về chất lượng thực tế của đội ngũ này so với mục tiêu phát triển lĩnh vực Dạy nghề từ nay đến năm 2020. Theo báo cáo của Tổng cục Dạy nghề Việt Nam, tính đến năm 2012, tổng số GVDN năm 2012 là 57.297, trong đó giáo viên cơ hữu trong hệ thống chiếm 68,8% (năm 2011 tỷ lệ này là 66,5%). Số giáo viên ở các cơ sở khác có dạy nghề từ tỷ lệ 33,5% năm 2011 giảm xuống còn 31,2% năm 2012. Số lượng tăng thêm chủ yếu trong các trường cao đẳng nghề (2011: có 12.807 người; năm 2012 có14.277 người). Số tăng thêm 1470 người, tương đương 2,70% tổng số giáo viên năm 2011. Nguyên nhân tăng do các trường trung cấp nghề (TCN) mới được nâng cấp lên trường cao đẳng nghề (CĐN) và một phần là do các trường (CĐN) tuyển dụng.
 
Trong số đó, nhà giáo GDNN có trình độ thạc sỹ trở lên tại các cơ sở dạy nghề là 3.946 người.  Số có trình độ đại học là 18.941 năm 2012. Tăng lên do yêu cầu chuẩn về bằng cấp (giảng viên CĐN, giáo viên TCN phải có bằng tốt nghiệp đại học, đại học sư phạm kỹ thuật trở lên). Tuy nhiên nguồn nhân lực này chủ yếu có trình độ về lý thuyết, kĩ năng thực hành còn hạn chế.
 
Tỷ lệ giáo viên chưa đạt chuẩn về thực hành  nghề cao nhất  là ở giáo viên dạy các trường trung cấp nghề với tỷ lệ 42,76%  tiếp theo là giáo viên dạy trình độ cao đẳng nghề trong trường Cao đẳng nghề  là 30,82%, tỷ lệ này ở Trung tâm dạy nghề có 10,05%. Khối cơ sở khác có dạy nghề 34,75% giáo viên chưa đạt chuẩn kỹ năng thực hành nghề. Tỷ lệ đạt chuẩn thực hành tại CSDN thuộc hệ thống là 41,00%. Điều này chứng minh số giáo viên có thể dạy tích hợp là 41,00%. Trong khi số chưa được đánh giá còn rất lớn: Cao đẳng nghề 39,61%, Trung cấp nghề 35,44%, TTDN 23,61%. Khối cơ sở khác có dạy nghề 48,3%. Trình độ ngoại ngữ nói chung của GVDN tại các cơ sở dạy nghề  số chưa đạt chuẩn GV CĐN năm 2011 là 33,44% giảm xuống 25,64% năm 2012. GV TCN 54,16% năm 2011 giảm xuống còn 47,99% năm 2012. Trung tâm dạy nghề số không đạt chuẩn ngoại ngữ tăng lên. Các cơ sở dạy nghề khác không thay đổi.
 
Năm 2012 mặc dù đã có nhiều tiến bộ song trình độ tin học của GVDN còn ở mức thấp Số chưa đạt chuẩn còn rất cao (CĐN 35,60%. TGN 28,06% TTDN 54,57%). 
 
Số GVDN không đạt chuẩn sư phạm dạy nghề tại các trường CĐN giảm từ 19,20% năm 2011 xuống 17,40% năm 2012, TCN từ 34,10% xuống 28,80%. TTDN và khối cơ sở khác có dạy nghề có dấu hiệu tăng nhẹ do giáo viên hợp đồng mới chưa được bồi dưỡng NVSP.
 
Đào tạo, bồi dưỡng có vai trò đặc biệt quan trọng đối với quá trình phát triển năng lực cho đội ngũ nhà giáo GDNN. Với yêu cầu ngày càng cao về kỹ năng nghề, chất lượng đội ngũ nhà giáo GDNN cần được nâng lên tương xứng. Chất lượng đội ngũ nhà giáo GDNN phụ thuộc rất lớn vào hiệu quả đào tạo, bồi dưỡng. Chính vì vậy, chính sách đào tạo, bồi dưỡng đối với nhà giáo GDNN cần được hoạch định và thực thi phù hợp, tạo ra động lực cho quá trình nâng cao chất lượng của nhà giáo GDNN. 
 
3. Một số đề xuất giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách đào tạo bồi dưỡng cho nhà giáo GDNN
 
Trong Chiến lược phát triển Dạy nghề thời kỳ 2011 – 2020, phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý dạy nghề được xem là một giải pháp quan trọng để thực hiện chiến lược này. Chiến lược xác định cần chuẩn hóa đội ngũ giáo viên dạy các nghề trọng điểm cấp độ quốc gia về trình độ đào tạo, kỹ năng và sư phạm nghề. 100% số giáo viên này phải đạt chuẩn vào năm 2014; Chuẩn hóa đội ngũ giáo viên dạy các nghề trọng điểm cấp độ khu vực và quốc tế về kỹ năng nghề và năng lực sư phạm của các nước tiên tiến trong khu vực ASEAN và các nước phát triển trên thế giới. 100% số giáo viên này phải đạt chuẩn của các nước tương ứng vào năm 2014. Nhà nước bảo đảm việc đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ nhà giáo GDNN (trong và ngoài nước) theo hướng chuẩn hóa, đủ về số lượng; có cơ cấu hợp lý theo nghề và trình độ đào tạo. Huy động các nhà khoa học, cán bộ kỹ thuật, nghệ nhân, người lao động có tay nghề cao, nông dân sản xuất giỏi tham gia dạy nghề cho lao động nông thôn. 
 
Từ thực trạng hệ thống chính sách, những đề xuất nhóm chính sách liên quan đến đào tạo bồi dưỡng cho nhà giáo GDNN sẽ quan tâm đến những vấn đề sau:
 
- Nguồn đầu tư cho việc đào tạo bồi dưỡng nhà giáo GDNN còn thiếu hụt;
 
- Chương trình bồi dưỡng cho nhà giáo GDNN chưa được xây dựng theo chuẩn kỹ năng nghề;
 
- Chưa quy định về chuẩn đầu ra của các chương trình đào tạo, bồi dưỡng nhà giáo GDNN;
 
- Khung năng lực quốc gia đối với nhà giáo GDNN chưa được xây dựng và ban hành;
 
- Mô hình đào tạo, bồi dưỡng nhà giáo GDNN theo hai phương thức song song và nối tiếp. Phương pháp mạch thẳng ưu điểm về chất lượng song lại chậm về quy mô. Phương pháp đào tạo nối tiếp tăng nhanh về quy mô nhưng chất lượng đào tạo bị ảnh hưởng;
 
- Mạng lưới cơ sở đào tạo, bồi dưỡng nhà giáo GDNN phân bố chưa đồng đều;
 
- Cơ cấu ngành nghề đào tạo trong các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng nhà giáo GDNN chưa phân định;
 
- Sự tách biệt giữa đào tạo, bồi dưỡng nhà giáo GDNN và nghiên cứu khoa học;
 
- Phân biệt giữa giáo viên trong biên chế hoặc giáo viên có hợp đồng lao động dài hạn với giáo viên chưa trong biên chế;
 
Những đề xuất chính sách dưới đây sẽ hướng tới các giải pháp hoàn thiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cho nhà giáo GDNN Việt Nam hiện nay.
 
Để nâng cao hiêu quả đào tạo, bồi dưỡng nhà giáo GDNN, vấn đề trước hết cần quan tâm là đảm bảo nguồn tài chính cần thiết cho hoạt động này, cần xem đó là một ưu tiên trong phát triển nhà giáo GDNN.
 
Do vậy đề nghị:
 
- Xây dựng quỹ Quốc gia về đào tạo, bồi dưỡng nhà giáo GDNN với tỷ trọng lớn từ ngân sách nhà nước. Bên cạnh đó, cần xây dựng chính sách xã hội hóa nguồn tài chính cho hoạt động đào tạo, bồi dưỡng nhà giáo GDNN như huy động sự đóng góp của người học theo quy định của pháp luật, huy động các nguồn lực xã hội hoá, đầu tư của các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp trong nước, ngoài nước và các nguồn hợp pháp khác.
 
- Quy định các dự án về dạy nghề vốn ODA phải dành một tỷ lệ kinh phí nhất định để thực hiện đào tạo, bồi dưỡng nhà giáo GDNN, nhất là tổ chức cho nhà giáo GDNN rèn luyện kỹ năng, phương pháp giảng dạy ở các nước tiên tiến, có hoạt động dạy nghề phát triển.
 
- Đổi mới chính sách phân bổ tài chính trong đào tạo, bồi dưỡng nhà giáo GDNN. Thực hiện phân bổ kinh phí đào tạo, bồi dưỡng theo chức danh nghề nghiệp thay vì xác định theo định mức đầu người.
 
- Quy định trao quyền quyết định sử dụng kinh phí cho các cơ quan, đơn vị sử dụng nhà giáo GDNN. Bởi lẽ, cơ quan, đơn vị sử dụng nhà giáo GDNN là chủ thể có thông tin đầy đủ nhất, chính xác nhất những thiếu hụt về năng lực của đội ngũ nhà giáo GDNN. Nếu cơ quan, đơn vị sử dụng nhà giáo GDNN được quyền quyết định kinh phí đào tạo, bồi dưỡng, có quyền lựa chọn chương trình đào tạo, bồi dưỡng sẽ làm thay đổi hẳn thói quen cung ứng dịch vụ đào tạo, bồi dưỡng hiện nay và tạo điều kiện cho những cơ sở có năng lực tham gia cung ứng dịch vụ này. Khi đó người học sẽ có cơ hội để lựa chọn dịch vụ tốt hơn, rẻ hơn và nhà nước cũng tiết kiệm kinh phí đầu tư. Một khi đã trao quyền tự chủ cho các cơ quan sử dụng nhà giáo GDNN, trong đó có quyền chọn cơ sở đào tạo sẽ hình thành một cơ chế cạnh tranh trong việc tổ chức các khoá đào tạo, bồi dưỡng cho nhà giáo GDNN. Điều này giúp nâng cao hiệu quả sử dụng kinh phí đào tạo, bồi dưỡng, khắc phục tình trạng nhà giáo GDNN tham dự nhiều chương trình đào tạo, bồi dưỡng nhưng năng lực làm việc không được cải thiện tương ứng.
 
- Thực hiện cơ chế cạnh tranh trong đào tạo, bồi dưỡng nhà giáo GDNN. Cơ chế thị trường, hội nhập, mục tiêu nâng cao năng lực của nhà giáo GDNN theo chuẩn khu vực và quốc tế đặt ra yêu cầu phải xây dựng cơ chế tổ chức đào tạo, bồi dưỡng linh hoạt hơn, mềm dẻo hơn bảo đảm sự cạnh tranh trong lĩnh vực này. Tạo điều kiện cạnh tranh trong đào tạo, bồi dưỡng nhà giáo GDNN chính là động lực để thúc đẩy sự phát triển của hoạt động này theo hướng chất lượng, hiệu quả, nâng cao hiệu quả sử dụng ngân sách cho đào tạo, bồi dưỡng nhà giáo GDNN.
 
+ Giải pháp về thể chế
 
Ban hành Nghị định quy định việc đào tạo, bồi dưỡng nhà giáo GDNN (theo quy định tại Khoản 2 Điều 58), trong đó quy định về Quỹ quốc gia về phát triển nhà giáo GDNN; quy định việc phân bổ tài chính; quy định về cơ sở đào tạo, bồi dưỡng nhà giáo.v.v… như đề xuất nêu trên.
 
+ Giải pháp về nguồn tài chính
 
Bổ sung nguồn kinh phí từ ngân sách trung ương, ngân sách địa phương cho việc đào tạo, bồi dưỡng nằm trong kinh phí đầu tư, phát triển.
 
- Đào tạo, bồi dưỡng nhà giáo GDNN theo hướng tiếp cận năng lực thực hiện. Các phương diện cần đổi mới như: xây dựng mô hình đào tạo, bồi dưỡng; nội dung, chương trình; phương thức và phương pháp tổ chức đào tạo; kiểm tra, đánh giá kết quả đào tạo và quản lý đào tạo nhà giáo GDNN theo năng lực thực hiện: Đổi mới cơ bản về mục tiêu, nội dung chương trình, phương thức và phương pháp đào tạo, hệ thống kiểm tra - đánh giá và cơ chế quản lý theo hướng mở và chuẩn hóa nhằm đáp ứng tốt nhu cầu sử dụng nhà giáo GDNN trong hệ thống dạy nghề của Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế.
 
* Giải pháp thực hiện
 
+ Những nội dung trên cần phải được thể chế trong Nghị định quy định về đào tạo, bồi dưỡng nhà giáo GDNN của Chính phủ và được hướng dẫn thực hiện những nội dung đổi mới này trong thông tư quy định của Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục nghề nghiệp ở trung ương.
 
+ Cơ quan quản lý có thẩm quyền tổ chức đánh giá các chương trình đào tạo, bồi dưỡng nhà giáo GDNN trước khi đặt hàng đào tạo, bồi dưỡng bảo đảm các chương trình đào tạo bồi dưỡng phải được đổi mới.
 
-  Đa dạng hóa phương thức đào tạo, bồi dưỡng nhà giáo GDNN
 
Cần có chính sách đa dạng hoá hình thức đào tạo, cụ thể:
 
+ Đào tạo trong các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng giáo viên trong nước; 
 
+ Đào tạo tại doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ;
 
+  Đào tạo trực tiếp, đào tạo trực tuyến qua mạng (e-learning); 
 
+  Đưa đi đào tạo ở nước ngoài, hoặc mời chuyên gia nước ngoài đến đào tạo tại Việt Nam... 
 
+ Xây dựng chính sách khuyến khích, tạo điều kiện để các cơ sở dạy nghề trong nước chủ động mở rộng hợp tác, liên kết đào tạo với các cơ sơ đào tạo ở nước ngoài;
 
+ Khuyến khích các tổ chức nghiên cứu khoa học tham gia công tác đào tạo, bồi dưỡng sư phạm nghề cho nhà giáo GDNN qua đó phát triển công tác nghiên cứu khoa học của các các cơ sở dạy nghề cũng như nâng cao năng lực nghiên cứu khoa học của nhà giáo GDNN.
 
* Giải pháp thực hiện
 
Quy định các phương thức đào tạo trong Nghị định của Chính phủ hoặc trong thông tư hướng dẫn về tổ chức đào tạo, bồi dưỡng nhà giáo GDNN.
 
- Quy hoạch, nâng cao năng lực các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng nhà giáo GDNN
 
+ Cần rà soát, quy hoạch lại hệ thống các trường sư phạm kỹ thuật theo hướng xây dựng trường đa ngành nghề; đầu tư cơ sở vật chất cho các các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng nhà giáo GDNN tạo điều kiện thực tập sư phạm cho nhà giáo GDNN;
 
+ Củng cố, nâng cao năng lực của các khoa sư phạm dạy nghề tại một số trường cao đẳng nghề trước đây; xây dựng trung tâm để đánh giá, cấp chứng chỉ kỹ năng nghề cho nhà giáo GDNN. Đánh giá, phân loại/phân hạng rõ ràng nhà giáo GDNN cũng là một yếu tố tạo cho họ động lực để tự/chủ động đào tạo, bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ giảng dạy;
 
+  Tăng cường các hoạt động nghiên cứu khoa học (có ràng buộc nghĩa vụ, trách nhiệm) cho chính đội ngũ nhà giáo GDNN để từ đó thông qua các mối quan hệ trực tiếp với các tổ chức nghiên cứu khoa học cũng như các cơ sở sản xuất kinh doanh để làm giàu kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ giảng dạy cũng như năng lực giảng dạy tích hợp - một xu hướng chủ đạo hiện nay của các cơ sở dạy nghề.
 
* Giải pháp thực hiện
 
+ Ban hành văn bản quy hoạch mạng lưới các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng nhà giáo GDNN;
 
+ Cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục nghề nghiệp ở trung ương cần có hướng dẫn các Bộ, ngành, địa phương tổ chức đánh giá các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng nhà giáo GDNN để xây dựng quy hoạch phù hợp.
 
-  Gắn kết với doanh nghiệp trong đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn cho nhà giáo GDNN
 
+ Nhà giáo GDNN phải định kỳ đi thực hành thực tập tại doanh nghiệp có ngành nghề sản xuất, kinh doanh, dịch vụ phù hợp với nghề đào tạo thông qua hợp đồng giữa doanh nghiệp và cơ sở GDNN, cụ thể:
 
+ Nhà giáo giảng dạy trình độ sơ cấp: Thời gian thực hành thực tập là 1 tháng/năm chia làm 02 đợt;
 
+ Nhà giáo giảng dạy trình độ trung cấp, cao đẳng: Thời gian thực hành, thực tập là 2 tháng/năm chia làm 02 đợt.
 
+ Nhà giáo GDNN tham gia hướng dẫn thực hành, thực tập cho người học tại doanh nghiệp thì không phải có thời gian riêng đi thực hành, thực tập tại doanh nghiệp;
 
+ Thời gian thực hành, thực tập tại doanh nghiệp của nhà giáo GDNN được tính vào thời gian giảng dạy (được coi là giờ chuẩn);
 
+ Hợp đồng đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ nhà giáo GDNN giữa cơ sở GDNN và doanh nghiệp có những nội dung sau:
 
* Tên chuyên đề đào tạo hoặc các kỹ năng nghề nâng cao;
 
*  Địa điểm đào tạo;
 
* Thời gian đào tạo;
 
* Chi phí đào tạo và phương thức thanh toán chi phí đào tạo;
 
* Thỏa thuận về thời gian và mức tiền công cho nhà giáo GDNN trực tiếp hoặc tham gia làm ra sản phẩm cho doanh nghiệp trong thời gian đào tạo.
 
* Trách nhiệm bồi thường thiệt hại của mỗi bên khi vi phạm hợp đồng;
 
* Thanh lý hợp đồng;
 
* Các thoả thuận khác không trái pháp luật và đạo đức xã hội. 
 
+ Toàn bộ chi phí cho việc thực hành, thực tập, hướng dẫn thực hành thực tập cho nhà giáo GDNN của doanh nghiệp được trừ để tính thu nhập chịu thuế, gồm:
 
* Các khoản chi phí hợp lý cho người dạy;
 
* Chương trình, tài liệu, vật liệu thực hành;
 
* Chi phí khấu hao nhà xưởng, máy móc thiết bị;
 
* Các chi phí khác (trả công cho người học)
 
+ Hàng năm, doanh nghiệp làm thủ tục khai báo với cơ quan thuế có thẩm quyền về kế hoạch, chi phí đào tạo, bồi dưỡng nhà giáo GDN;
 
+  Hồ sơ, trình tự, thủ tục; thẩm quyền tiếp nhận việc khai báo miễn trừ thuế thu nhập doanh nghiệp với các chi phí cho đào tạo, bồi dưỡng nhà giáo GDNN tương tự như hồ sơ, trình tự, thủ tục; thẩm quyền tiếp nhận việc khai báo miễn trừ thuế thu nhập doanh nghiệp với các chi phí cho việc thực hành, thực tập của người học.

* Giải pháp thực hiện
 
Ban hành nghị định của Chính phủ quy định quy định chi tiết về quyền và trách nhiệm của doanh nghiệp trong hoạt động dạy nghề. Trong nghị định này quy định chi tiết cụ thể về việc gắn kết giữa doanh nghiệp với cơ sở GDNN nói chung trong đó có các nội dung về gắn kết trong đào tạo, bồi dưỡng nhà giáo GDNN như đề xuất ở trên.
 
KẾT LUẬN
 
Nếu coi chất lượng đội ngũ nhà giáo GDNN là yếu tố then chốt trong việc đảm bảo chất lượng đào tạo nghề nghiệp thì việc Nhà nước với hệ thống các chính sách hợp lý nhằm cung ứng được nguồn nhân lực tốt nhất cho lĩnh vực này đang thực sự là một thách thức. Bài viết chỉ mới đề cập đến một khía cạnh trong chức năng hoạch định chính sách đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ nhà giáo GDNN của hoạt động quản lý nhà nước. Tuy nhiên hệ thống các giải pháp đề xuất đã được xây dựng trên những cơ sở lý luận và thực tiễn qua việc nghiên cứu và khảo sát một cách nghiêm túc, khoa học. Chúng tôi hi vọng nó sẽ được thể chế hóa trong thời gian sớm nhất.
 
TÀI LIỆU THAM KHẢO
 
1. Báo cáo dạy nghề Việt Nam năm 2011 và năm 2012 

2. Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội giai đoạn 2011-2020

3. Chiến lược phát triển nguồn nhân lực Việt Nam giai đoạn 2011-2020

4. Chiến lược phát triển dạy nghề giai đoạn 2011-2020

5.  Luật Giáo dục Nghề nghiệp

6. The National Dual Training System-Malaysia.

7. TVET: Thai Land Experiences – Dr Chana Kasipar

8. Social Welfare, Politics and Public Policy - Diana M. Dinitto

9. Public Policy: Politics Analysis and Alternatives, 4th Edition - Micheal E Kraft and Scoot R. Furlong

10. Essentials of Social Welfare: Politics and Public Policy - Diana M. DiNittio and David H. Jolnson
 
 
H.B (Nguồn: Tạp chí khoa học dạy nghề)