Cập nhật ngày: 29/03/2022

Giáo dục nghề nghiệp (GDNN) là một bậc học của hệ thống giáo dục quốc dân nhằm đào tạo trình độ sơ cấp, trình độ trung cấp, trình độ cao đẳng và các chương trình đào tạo nghề nghiệp khác cho người lao động, đáp ứng nhu cầu nhân lực trực tiếp trong sản xuất, kinh doanh và dịch vụ. Đối tượng người học của GDNN đa dạng về lứa tuổi (từ 15 tuổi trở lên), song đối với đào tạo ban đầu, phần lớn đều tập trung ở lứa tuổi thanh niên. Do vậy, cũng có thể hiểu, các cơ chế, chính sách phát triển GDNN cũng chính là cơ chế, chính sách phục vụ đào tạo nghề cho thanh niên.

I. Tình hình chung về đào tạo nghề cho thanh niên
1. Các chủ trương, định hướng của Đảng, Nhà nước về đào tạo nghề cho thanh niên
GDNN nói chung, đào tạo nghề cho thanh niên nói riêng là một trong những nhiệm vụ chính trị quan trọng hàng đầu trong phát triển nguồn nhân lực nhằm tận dụng lợi thế cơ cấu dân số vàng, đẩy nhanh trí thức hóa giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và người lao động, góp phần nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Vì vậy, thời gian qua, Đảng, Nhà nước ta luôn quan tâm đến phát triển GDNN, đào tạo nghề cho thanh niên.
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (năm 1986) của Đảng đã nhấn mạnh nhiệm vụ của ngành giáo dục nói chung GDNN nói riêng là: “Nâng cao chất lượng giáo dục nhằm mục tiêu hình thành và phát triển toàn diện nhân cách xã hội chủ nghĩa của thế hệ trẻ, đào tạo đội ngũ lao động có văn hoá, có kỹ thuật, có kỷ luật và giàu tính sáng tạo, đồng bộ về ngành nghề, phù hợp với yêu cầu phân công lao động của xã hội”.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã khẳng định “Thanh niên là lực lượng xã hội to lớn, là “rường cột của nước nhà”, một trong những nhân tố rất quan trọng quyết định đến tương lai, vận mệnh của dân tộc, của đất nước. Do vậy, tại Đại hội Đảng VIII, Đảng ta đã đưa ra chủ trương “tăng nhanh tỉ trọng đào tạo ngành nghề dưới bậc đại học và “kiện toàn, phát triển mạnh và bảo đảm chất lượng các cở sở đào tạo nghề”. Đại hội lần thứ IX của Đảng tiếp tục xác định “mở rộng đào tạo công nhân, kỹ thuật viên và nhân viên nghiệp vụ theo nhiều trình độ”. Đại hội Đảng X của Đảng và một lần nữa xác định chú trọng phân luồng đào tạo sau trung học cơ sở; và “mở rộng quy mô dạy nghề và trung học chuyên nghiệp bảo đảm tốc độ tăng nhanh hơn đào tạo đại học, cao đẳng”.
Trong giai đoạn cách mạng mới, trước những thách thức to lớn của xu thế toàn cầu hóa về kinh tế, sự phát triển của kinh tế tri thức, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng khẳng định: Thanh niên là lực lượng xung kích cách mạng, là nguồn nhân lực quyết định thắng lợi của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đồng thời xác định một trong ba đột phá chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 là phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao. Đại hội đề ra chủ trương “đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế” và khẳng định “phát triển mạnh và nâng cao chất lượng dạy nghề và giáo dục chuyên nghiệp”.
Để cụ thể hóa chủ trương phát triển nhanh nguồn nhân lực đặc biệt là nguồn nhân lực là lao động nông thôn, Chỉ thị của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dạy nghề cho lao động nông thôn (Chỉ thị số 19-CT/TW ngày 5/11/2012) ngoài những lãnh đạo công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn nói chung đã yêu cầu các cấp ủy đảng triển khai các nhiệm vụ tập trung dạy nghề cho thanh niên nông thôn đáp ứng yêu cầu lao động của các cơ sở công nghiệp, thủ công nghiệp, dịch vụ xuất khẩu lao động và chuyển nghề;
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8, Ban Chấp hành Trung ương khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục đào tạo (Nghị quyết 29-NQ/TW ngày 14/11/2013) đã xác định mục tiêu với GDNN là “tập trung đào tạo nhân lực có kiến thức, kỹ năng và trách nhiệm nghề nghiệp. Hình thành hệ thống giáo dục nghề nghiệp với nhiều phương thức và trình độ đào tạo kỹ năng nghề nghiệp theo hướng ứng dụng, thực hành, bảo đảm đáp ứng nhu cầu nhân lực kỹ thuật công nghệ của thị trường lao động trong nước và quốc tế”.
Để định hướng phát triển nhân lực chất lượng cao trong lĩnh vực GDNN, ngày 06/6/2014, Ban Bí thư đã ban hành Chỉ thị số 37-CT/TW về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác đào tạo nhân lực có tay nghề cao, trong đó chỉ đạo đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức, tăng cường công tác quản lý nhà nước, tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ chương trình, nội dung đào tạo, xây dựng và phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý đào tạo nhân lực có tay nghề cao, đổi mới, hoàn thiện cơ chế, chính sách, đa dạng hóa nguồn lực đào tạo nhân lực có tay nghề cao và chủ động hợp tác, hội nhập quốc tế.
Đại hội lần thứ XII của Đảng đã hoạch định những chiến lược quan trọng để phát triển đất nước, trong đó có công tác đào tạo nghề cho thanh niên như đưa ra chủ trương nâng cao kiến thức chuyên sâu và tác phong công nghiệp trong đào tạo nghề, hoàn thiện chính sách tín dụng ưu đãi cho học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn, khuyến khích hình thành các quỹ học bổng giúp học sinh, sinh viên nghèo vượt khó, học giỏi, đổi mới khung chương trình đào tạo, giao quyền tự chủ cho cơ sở dạy nghề, đẩy mạnh dạy nghề và gắn kết đào tạo với doanh nghiệp.
Đại hội lần thứ XIII của Đảng khẳng định chủ trương “Tạo động lực cho thanh niên xung kích trong học tập, lao động, sáng tạo, khởi nghiệp, làm chủ các kiến thức khoa học, công nghệ hiện đại, phát huy vai trò trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” đồng thời đưa ra các định hướng, chủ trương về GDNN nói chung và thanh niên nói riêng. Đại hội tiếp tục xác định phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong ba đột phá chiến lược và khẳng định đẩy mạnh phân luồng sau trung học cơ sở (THCS); định hướng nghề nghiệp ở trung học phổ thông, đổi mới và nâng cao chất lượng GDNN theo hướng mở, linh hoạt, đào tạo thường xuyên lực lượng lao động, hình thành đội ngũ lao động lành nghề, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, gắn kết chặt chẽ giữa đào tạo và sử dụng lao động.
Triển khai các quan điểm, chủ trương của Đảng về đào tạo nghề cho thanh niên, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết và các văn bản để chỉ đạo các Bộ, ngành, địa phương triển khai thực hiện. Chính phủ trình Quốc hội đã ban hành Luật Giáo dục nghề nghiệp năm 2014 trong đó quy định về hình thành hệ thống GDNN gồm 3 cấp trình độ đào tạo là sơ cấp, trung cấp và cao đẳng, quy định nhiều nội dung mới, mang tính đột phá, đã tiếp cận với các nước tiên tiến nhằm đáp ứng yêu cầu về cơ cấu nguồn nhân lực phục vụ phát triển kinh tế trong giai đoạn mới trong đó xác định chính sách quan trọng về GDNN cho thanh niên là “Đầu tư nâng cao chất lượng đào tạo, chất lượng cao đáp ứng nhu cầu nhân lực của thị trường lao động, nhu cầu học tập của người lao động và từng bước phổ cập nghề cho thanh niên”. Năm 2020, Chính phủ đã trình Quốc hội đã thông qua Luật Thanh niên , trong đó có quy định các chính sách về giáo dục/đào tạo, hỗ trợ đào tạo đối với từng đối tượng thanh niên. Ngày 01/10/2020, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1486/QĐ-TTg, lấy ngày 4/10 hàng năm là ngày Kỹ năng lao động Việt Nam.
Năm 2021 là năm đầu tiên thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng; Nghị quyết số 50/NQ-CP ngày 20/5/2021 về Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng XIII, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Chiến lược triển thanh niên Việt Nam giai đoạn 2021 - 2030 đồng thời phê duyệt ban hành Chiến lược phát triển GDNN giai đoạn 2021 - 2030 và tầm nhìn đến năm 2045. Cũng trong năm 2021, Chính phủ đã phê duyệt 04 chương trình lớn gồm Chương trình Mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững và Chương trình Mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2030, Chương trình đào tạo, đào tạo lại nâng cao kỹ năng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của cuộc CMCN 4.0, Chương trình chuyển đổi số và dạy học trực tiếp trong GDNN, tạo cơ sở cho triển khai đổi mới, phát triển GDNN nói chung và cho thanh niên nói riêng trong giai đoạn tới.
2. Bối cảnh trong nước, quốc tế tác động đến đào tạo nghề cho thanh niên
a) Bối cảnh quốc tế
- Quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng về giáo dục đào tạo đang diễn ra ở quy mô toàn cầu, khu vực, đặc biệt với việc một số nước, trong đó có Việt Nam ký kết các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới (CPTPP, RCEP, EVFTA….) với những tiêu chuẩn lao động mới, tạo cơ hội thuận lợi để tiếp cận với các xu thế mới, tri thức mới, các chuẩn quốc tế, những mô hình giáo dục và quản lý giáo dục hiện đại, tranh thủ các nguồn lực bên ngoài cho phát triển GDNN. Việc tham gia các FTA thế hệ mới, đòi hỏi Việt Nam phải tuân thủ các “luật chơi” chung, trong đó có các tiêu chuẩn về lao động. Điều này đòi hỏi hệ thống giáo dục đào tạo nói chung và GDNN của Việt Nam nói riêng phải thay đổi mạnh mẽ.
- Cách mạng khoa học công nghệ tiếp tục phát triển nhanh chóng, nhất là tác động của CMCN 4.0, công nghệ số, công nghệ thông tin và truyền thông đang và sẽ tạo ra sự thay đổi có tính đột phá trong nhiều lĩnh vực, trong đó có GDNN, tạo điều kiện thuận lợi để đổi mới nội dung, phương pháp đào tạo và quản lý GDNN, tạo cơ hội mới cho GDNN phát triển; đồng thời có điều kiện để đáp ứng được các tiêu chuẩn hiện đại của nhiều quốc gia phát triển. 
- Đào tạo theo hướng cầu đã trở thành cách tiếp cận đào tạo có hiệu quả và đang được thực hiện rất thành công ở các quốc gia phát triển. Chương trình việc làm toàn cầu của Tổ chức lao động quốc tế (ILO), đã khuyến cáo các quốc gia tổ chức đào tạo nghề linh hoạt theo hướng cầu của thị trường lao động, nhằm tạo việc làm bền vững. UNESCO đã nêu rõ, phát triển kỹ năng nghề gắn với học tập suốt đời sẽ là xu hướng phát triển GDNN trong thế kỷ XXI .
- Tình hình đại dịch COVID-19 diễn biến phức tạp trên toàn thế giới, ảnh hưởng nghiêm trọng đến mọi lĩnh vực, tạo nên tình trạng thất nghiệp, thiếu việc làm, nghèo đói gia tăng… ảnh hưởng đến việc giáo dục đào tạo nói chung, GDNN, đào tạo cho thanh niên nói riêng.
b) Bối cảnh trong nước
- Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021 - 2030 đã định hình mô hình phát triển đất nước theo hướng trở thành nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại vào năm 2030 và là nước phát triển vào năm 2045, đồng thời nhấn mạnh phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong ba đột phá chiến lược và đã nêu rõ định hướng xây dựng hệ thống GDNN mở và linh hoạt. Đây là cơ sở quan trọng cho phát triển GDNN, đào tạo nghề cho thanh niên trong thời gian tới.
- Nhận thức của các cấp, ngành và toàn xã hội về vai trò và tầm quan trọng của GDNN, đào tạo cho thanh niên đã có sự chuyển biến tích cực. GDNN luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm trong thời gian qua; đầu tư của nhà nước và xã hội cho GDNN từng bước được nâng lên; các điều kiện đảm bảo chất lượng của các cơ sở GDNN được cải thiện.
- Đổi mới mô hình tăng trưởng nền kinh tế theo hướng nâng cao chất lượng, gắn với phát triển bền vững (tăng trưởng xanh, tăng trưởng bao trùm) là cơ hội để thúc đẩy phát triển GDNN, đào tạo nghề cho thanh niên, hình thành những ngành nghề đào tạo mới, nhất là đào tạo nhân lực chất lượng cao, các nghề “xanh”; thúc đẩy các cơ sở GDNN nâng cao năng lực không chỉ đáp ứng về quy mô mà còn đáp ứng cơ cấu và chất lượng, đặc biệt là các ngành, nghề mũi nhọn, có sức cạnh tranh cao của nền kinh tế, đồng thời tạo điều kiện để mở rộng hoạt động đào tạo cho các vùng, miền, các nhóm đối tượng yếu thế, góp phần đảm bảo an sinh xã hội.
- Nhiều cơ chế chính sách đã được Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành trong thời gian gần đây, tạo thêm động lực mới để thúc đẩy sự phát triển của GDNN và đào tạo nghề cho thanh niên.
c) Một số thách thức
- Các rủi ro phi truyền thống (như sự tác động của biến đổi khí hậu, các đại dịch, điển hình như dịch COVID-19 hiện nay...) ngày càng diễn biến phức tạp, tác động tiêu cực đối với nền kinh tế và sự phát triển của doanh nghiệp, tác động tới cơ hội việc làm của thanh niên sau khi sau học nghề.
- Tăng trưởng bao trùm, tăng trưởng xanh là chiến lược tăng trưởng kinh tế nước ta. Tuy nhiên, quá trình toàn cầu hóa và sự dịch chuyển của các chuỗi giá trị toàn cầu lại là một yếu tố hạn chế tính bao trùm, tạo ra nhóm người dễ bị “tổn thương”, gia tăng khoảng cách giàu nghèo. Để giải quyết mâu thuẫn này, một mặt phải đẩy mạnh đào tạo nhân lực chất lượng cao, mặt khác lại phải tổ chức đào tạo nhân lực diện rộng cho các đối tượng chính sách. Đây là thách thức lớn đối với hệ thống GDNN, trong điều kiện ngân sách quốc gia phải sử dụng cho nhiều mục đích khác nhau.
- Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới (WB), Việt Nam đang bắt đầu trở thành một trong những quốc gia có tốc độ già hóa nhanh nhất thế giới. Theo dự báo của Tổng cục Thống kê, đến năm 2030, tỷ lệ người cao tuổi Việt Nam chiếm 18% dân số, nghĩa là chuẩn bị bước vào ngưỡng của quốc gia “dân số già” . Từ nay đến năm 2030, Việt Nam sẽ phải đối mặt với sự thay đổi mạnh của cơ cấu dân số, đặc biệt dân số trong nhóm thanh niên từ 15 - 29 tuổi trong cơ cấu lao động giảm. Điều này có nghĩa cần tăng cường đầu tư chiều sâu cho vốn con người, thông qua giáo dục đào tạo, trong đó có GDNN càng trở nên thiết yếu hơn nếu muốn phát triển bền vững.
- Doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu là doanh nghiệp vừa và nhỏ (chiếm tới 98% tổng số doanh nghiệp đang hoạt động) nên khả năng hấp thụ công nghệ mới và tiếp nhận lao động thanh niên có kỹ năng cao còn thấp; đồng thời khả năng tham gia của doanh nghiệp trong hoạt động GDNN rất hạn chế.
- Theo dự báo của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), cứ sau 5 năm 30% kỹ năng nghề nghiệp hiện tại của người lao động sẽ không được sử dụng nữa, phải thay thế bằng những kỹ năng mới. Điều này đòi hỏi hệ thống GDNN phải đổi mới hoạt động đào tạo, không chỉ trang bị kỹ năng nghề nghiệp mà còn phải trang bị cho người học kỹ năng thích ứng với sự thay đổi; đồng thời phải tăng cường các hoạt động đào tạo lại, đào tạo nâng cao cho người lao động thanh niên trong doanh nghiệp.
- Công nghiệp 4.0 đòi hỏi hạ tầng chuyển đổi số, nguồn dữ liệu, tài nguyên GDNN và các lĩnh vực ngành, nghề được tạo ra và quản trị sử dụng, chia sẻ trên nền tảng khoa học dữ liệu. Tuy nhiên, năng lực tiếp cận chuyển đổi số, GDNN số trong hệ thống GDNN đang là điểm hạn chế. 
- Năng lực hội nhập của lao động Việt Nam chưa cao; kỹ năng nghề còn yếu so với tiêu chuẩn của khu vực và thế giới. Theo “Báo cáo năng lực cạnh tranh toàn cầu trong thời kỳ 4.0” (GCI 4.0) năm 2019 của Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF) thì Việt Nam hiện đang đứng thứ 102 trên tổng số 141 quốc gia về trụ cột “Kỹ năng”. Năng lực cạnh tranh 4.0 của Việt Nam đứng thứ 6 trong ASEAN. Có thể nói, kỹ năng thấp chính là “rào cản” đối với lao động thanh niên Việt Nam trong thị trường việc làm 4.0. Nâng cao kỹ năng của lao động thanh niên, tạo điều kiện cho lao động thanh niên Việt Nam tham gia vào chuỗi cung ứng nhân lực toàn cầu là yêu cầu cấp thiết đặt ra của nền kinh tế và đây là thách thức lớn, đòi hỏi hệ thống GDNN Việt Nam phải thay đổi mạnh mẽ. 
3. Xu hướng, nhu cầu về đào tạo nghề cho thanh niên
Xác định tầm quan trọng của GDNN đối với mỗi quốc gia, từ năm 2015, Liên Hợp quốc chính thức chọn ngày 15 tháng 7 hàng năm làm Ngày Kỹ năng thanh niên thế giới (World Youth Skills Day)  nhằm nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của GDNN, phát triển kỹ năng nghề cho thanh niên. Liên Hợp quốc hy vọng ngày này sẽ góp phần giảm tỷ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm trong giới trẻ trên toàn cầu, làm nổi bật sự phát triển kỹ năng của thanh thiếu niên, đóng góp vào sự phát triển chung của thế giới. Năm 2016, Tổ chức UNESCO đã đề ra Chiến lược phát triển GDNN giai đoạn 2016 - 2021 , trong đó đã xác định một trong 3 trụ cột ưu tiên trong phát triển GDNN của thế giới là “tăng cường việc làm cho thanh niên và thúc đẩy tinh thần khởi tạo doanh nghiệp”.
Một số xu hướng cụ thể về phát triển GDNN, đào tạo nghề cho thanh niên cũng được các nước trên thế giới quan tâm như:
(1) Phát triển bền vững GDNN trong mối quan hệ chặt chẽ với phát triển nguồn nhân lực nhằm trang bị cho thanh thiếu niên và người lao động các kỹ năng cần thiết cho việc làm, tinh thần kinh doanh và học tập suốt đời;
(2) GDNN phát triển dưới nhiều hình thức và ngày càng mở rộng tới cấp trung học nhằm trang bị cho thanh niên trẻ những kỹ năng cần thiết để sớm bước vào thị trường lao động; phân luồng và liên thông vẫn tiếp tục phát triển mạnh trong hệ thống GDNN, nhằm tạo cơ hội học tập lớn nhất cho thanh niên, sớm gia nhập thị trường lao động;
(3) Học suốt đời và xây dựng trường học cộng đồng đòi hỏi thanh niên phải luôn trau dồi kiến thức, kỹ năng mới cho bản thân để đáp ứng với những yêu cầu của thế giới việc làm, đặc biệt trong bối cảnh cuộc CMCN 4.0 diễn ra mạnh mẽ;
(4) Kỹ năng được coi là một loại tiền tệ toàn cầu. Theo xu hướng này , kỹ năng là một nguồn lợi thế kinh tế, ngày càng gia tăng và có thể giao dịch;
(5) Cơ cấu lao động chuyển dịch từ khu vực năng suất lao động thấp sang khu vực năng suất lao động cao, đòi hỏi GDNN phải nhanh chóng chuyển từ mô hình đào tạo theo số lượng, sang mô hình đào tạo chất lượng, phân tầng chất lượng (nhất là chất lượng cao và trình độ cao) với quy mô thích hợp theo các giai đoạn phát triển kinh tế;
(6) Thế giới việc làm thay đổi nhanh và khó đoán định; do vậy cần chuyển hướng đào tạo từ diện nghề hẹp, chuyên sâu sang đào tạo diện nghề rộng, tích hợp liên ngành/nghề dựa trên nền tảng tăng hàm lượng chất xám và kỹ năng thích ứng linh hoạt, để người học dễ dàng dịch chuyển nghề nghiệp trên thị trường lao động không biên giới và đa văn hóa. 
Với những bối cảnh và xu hướng nêu trên, dự báo lực lượng lao động phân theo cấp trình độ đào tạo GDNN ở Việt Nam như sau: Đến năm 2025, tổng số lực lượng lao động cả nước là 59,2 triệu người, trong đó lao động có trình độ sơ cấp là 3,2 triệu người; lao động có trình độ trung cấp là 2,95 triệu người; lao động có trình độ cao đẳng là 4,0 triệu người; đến năm 2030, tổng số lực lượng lao động cả nước là 61,9 triệu người, trong đó lao động có trình độ sơ cấp nghề là 3,1 triệu người; lao động có trình độ trung cấp là 3,4 triệu người; lao động có trình độ cao đẳng là 7,1 triệu người. Tốc độ tăng trưởng lực lượng lao động bình quân trong giai đoạn 2021 - 2030 là 0,9%/năm; tốc độ tăng trưởng lực lượng lao động có trình độ sơ cấp, trung cấp và cao đẳng bình quân trong giai đoạn này là 4,5%/năm, 3,0%/năm và 10,0%/năm .
II. Kết quả việc thực hiện chính sách, pháp luật về đào tạo nghề cho thanh niên
1. Việc ban hành hệ thống văn bản quy phạm pháp luật và các chính sách về đào tạo nghề cho thanh niên
Hệ thống pháp luật về GDNN ngày càng hoàn thiện, tác động tích cực đến các hoạt động từ quản lý nhà nước vĩ mô đến cơ sở GDNN. Luật GDNN đã hình thành hệ thống GDNN với 3 cấp trình độ đào tạo là sơ cấp, trung cấp và cao đẳng, quy định nhiều nội dung mới, mang tính đột phá, tiếp cận với các nước tiên tiến, đáp ứng yêu cầu về cơ cấu nguồn nhân lực phục vụ phát triển kinh tế trong giai đoạn mới và đáp ứng nhu cầu học tập của thanh niên.
Giai đoạn 2016 - 2020, đã tham mưu xây dựng, trình ban hành 03 luật, 01 bộ luật (Luật GDNN; Luật Giáo dục; Luật Việc làm; Bộ luật Lao động); 102 văn bản (07 nghị định, 01 chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ, 06 quyết định của Thủ tướng Chính phủ, 84 thông tư và 04 thông tư liên tịch) với nhiều cơ chế, chính sách mới, tạo hành lang pháp lý đồng bộ, thống nhất để các cơ sở GDNN tổ chức, triển khai các hoạt động GDNN đáp ứng nhu cầu về nguồn nhân lực trực tiếp phục vụ sản xuất, kinh doanh, dịch vụ (Phụ lục I kèm theo).
Trên cơ sở các Luật, hệ thống cơ chế, chính sách đã được ban hành phù hợp với yêu cầu thực tiễn, tạo khung pháp lý  cho các hoạt động GDNN. Các chính sách bao phủ các nhóm đối tượng gồm người học (thanh niên), người dạy, cơ sở GDNN và doanh nghiệp, trong đó tập trung nhiều nhất vào thanh niên gồm các chính sách: Chính sách miễn giảm học phí; chính sách học bổng khuyến khích học nghề; chính sách tín dụng ưu đãi; chính sách trong tuyển sinh, đào tạo; chính sách hỗ trợ cho các đối tượng đặc thù (thanh niên học sinh dân tộc thiểu số nội trú; thanh niên học sinh có hoàn cảnh khó khăn; bộ đội, công an hoàn thành nghĩa vụ; thanh niên lao động nông thôn…) (Phụ lục II, Phụ lục VI, VII kèm theo, ).
Ngoài ra, nhiều cơ chế chính sách phát triển đào tạo chất lượng cao trong đó đối tượng đào tạo là thanh niên đã được Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội ban hành, điển hình như: Đề án “Chuyển giao các bộ chương trình; đào tạo, bồi dưỡng giáo viên và cán bộ quản lý dạy nghề; đào tạo thí điểm các nghề trọng điểm cấp độ khu vực ASEAN, quốc tế giai đoạn 2012 - 2015”  (Đề án 371);  Đề án “Phát triển trường nghề chất lượng cao đến năm 2020”  (Đề án 761); Chương trình mục tiêu GDNN - Phê duyệt ngành, nghề trọng điểm. 
Thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng, năm 2021, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội đã trình Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Chiến lược phát triển GDNN giai đoạn 2021 - 2030 và tầm nhìn 2045 và 04 chương trình lớn gồm Chương trình MTQG giảm nghèo bền vững và Chương trình MTQG Phát triển kinh tế xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2030, Chương trình đào tạo, đào tạo lại nâng cao kỹ năng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của cuộc CMCN4.0, Chương trình chuyển đổi số và dạy học trực tiếp trong GDNN mở ra nhiều cơ hội học tập, nâng cao trình độ kỹ năng nghề cho thanh niên trước bối cảnh mới.
2. Về công tác quản lý, chỉ đạo điều hành
Từ năm 1998, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội thực hiện việc quản lý nhà nước về đào tạo nghề theo phân công của Chính phủ, Bộ Giáo dục và Đào tạo thực hiện quản lý đào tạo chuyên nghiệp (trung cấp chuyên nghiệp và cao đẳng).
Thực hiện Nghị quyết phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 8/2016 (số 76/NQ-CP ngày 03/9/2016), Nghị định số 15/2019/NĐ-CP ngày 01/02/2019 quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Giáo dục nghề nghiệp, đến nay, bộ máy quản lý nhà nước về GDNN được kiện toàn từ trung ương tới địa phương với trách nhiệm quản lý nhà nước về GDNN được phân định rõ (Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về GDNN).
Ngay sau khi có Nghị quyết của Chính phủ, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã kịp thời có văn bản hướng dẫn, đôn đốc các địa phương thực hiện việc bàn giao chức năng quản lý nhà nước về GDNN tại địa phương . Đến ngày 31/12/2017, 63/63 tỉnh, thành phố đã hoàn thành việc bàn giao chức năng quản lý nhà nước từ Sở Giáo dục và Đào tạo sang Sở Lao động - Thương binh và Xã hội. Đồng thời, Bộ LĐTBXH đã trình Chính phủ ban hành Nghị định số 15/2019/NĐ-CP ngày 01/02/2019 quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Giáo dục nghề nghiệp, trong đó tập trung quy định rõ trách nhiệm quản lý nhà nước về GDNN của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, các Bộ, ngành, Ủy ban nhân dân các cấp.
Đến nay, bộ máy quản lý nhà nước về GDNN được kiện toàn từ trung ương tới địa phương. Việc quản lý được thực hiện theo hướng phân cấp mạnh cho địa phương và tăng cường tính tự chủ, đi đôi với tự chịu trách nhiệm của cơ sở GDNN. 
Thực hiện chức năng quản lý nhà nước về GDNN, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã tích cực chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật, các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, đề án, dự án, chương trình về GDNN đã được ban hành, bảo đảm việc tổ chức thực hiện theo đúng quy định của pháp luật.
3. Kết quả thực hiện công tác đào tạo nghề cho thanh niên
a) Về mạng lưới cơ sở GDNN và ngành nghề đào tạo
Mạng lưới cơ sở GDNN phát triển rộng khắp cả nước, đa dạng về loại hình và mô hình hoạt động, phân bố tương đối hợp lý ở các ngành kinh tế, địa phương, vùng, miền đáp ứng yêu cầu của Chiến lược phát triển dạy nghề giai đoạn 2011-2020 ; đang tiếp tục được rà soát, sắp xếp theo tinh thần của Nghị quyết số 19-NQ/TW. Đã hình thành mạng lưới trường cao đẳng chất lượng cao, các ngành, nghề trọng điểm và tiếp cận trình độ khu vực và quốc tế theo Đề án Chính phủ phê duyệt ; hình thành và xây dựng một số cơ sở GDNN chuyên biệt để đào tạo cho nhóm đối tượng yếu thế (người khuyết tật, người dân tộc thiểu số…), đào tạo ngành, nghề phục vụ phát triển kinh tế biển và các nhóm đối tượng thuộc lĩnh vực văn hóa, thể dục thể thao (Phụ lục III kèm theo).
Ngành nghề đào tạo trong lĩnh vực GDNN đa dạng, phong phú, đáp ứng mọi nhu cầu học nghề của thanh niên và yêu cầu của thị trường lao động. Theo danh mục đào tạo, hiện có 669 ngành, nghề trình độ cao đẳng và 897 ngành, nghề trình độ trung cấp, thuộc 65 nhóm ngành, nghề ở 23 lĩnh vực, bao phủ mọi lĩnh vực trong đời sống, kinh tế - xã hội của đất nước (từ kinh tế, xã hội; công nghệ kỹ thuật, dịch vụ, y tế, văn hóa xã hội, an ninh quốc phòng ...).
b) Về quy mô tuyển sinh đào tạo
Trong những năm gần đây, số thanh niên tham gia vào học nghề ngày càng tăng. Giai đoạn 2016 - 2020 tuyển sinh đạt 11.077 ngàn người (đạt 103% kế hoạch, tăng hơn 21% so với kết quả thực hiện giai đoạn 2011-2015), vượt kế hoạch được giao của giai đoạn 2016-2020, trong đó: trình độ cao đẳng và trung cấp đạt 2.472 ngàn người, sơ cấp và các chương trình đào tạo nghề nghiệp khác đạt 8.605 ngàn người. Tốt nghiệp GDNN đạt 10.212 ngàn người (đạt 108% kế hoạch). Trong đó: trình độ cao đẳng và trung cấp đạt 1.993 ngàn người; sơ cấp và các chương trình đào tạo nghề nghiệp khác đạt 8.219 ngàn người.
Số lượng tuyển sinh giai đoạn 2011 - 2020 đạt 19,67 triệu người, trong đó tuyển sinh trình độ cao đẳng đạt 1,945 triệu người (chiếm 9,8%), trình độ trung cấp đạt 2,3 triệu người (chiếm 11,86%); số người thuộc nhóm dân tộc thiểu số chiếm khoảng 7,5% và nữ chiếm 25,5%. Quy mô đào tạo tăng góp phần nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo có văn bằng, chứng chỉ của cả nước năm 2020 đạt 24,6%.  Ngành, nghề đào tạo được mở dần, từng bước phù hợp với thực tế của doanh nghiệp và TTLĐ ở từng địa phương, từng lĩnh vực (Phụ lục IV kèm theo).
Đào tạo nghề cho lao động nông thôn theo Quyết định số 1956/QĐ-TTg ngày 27/11/2009 được đẩy mạnh. Cả nước có trên 9 triệu lao động nông thôn được học nghề (đạt 91% kế hoạch), trong đó gần 5,2 triệu người được hỗ trợ đào tạo nghề theo chính sách của Đề án, đạt 73,5% kế hoạch. Các đối tượng yếu thế (người khuyết tật, người dân tộc thiểu số, người nghèo), phụ nữ nông thôn, bộ đội xuất ngũ,… đã được quan tâm đào tạo nghề và giải quyết việc làm với các hình thức và mô hình phù hợp, bằng các chính sách thiết thực và hiệu quả (Phụ lục VIII).
Năm 2021, mặc dù gặp nhiều khó khăn do dịch COVID-19 bùng phát trở lại song các địa phương, cơ sở GDNN đã có nhiều nỗ lực trong công tác tuyển sinh. Tính đến 31/12/2021, cả nước tuyển sinh được 1.915.548 người, đạt 85,14% kế hoạch (trình độ cao đẳng, trung cấp: 375.108 người, đạt 65,81%; trình độ sơ cấp và các chương trình nghề nghiệp khác: 1.540.440 người, đạt 91,69%).
c) Về các điều kiện bảo đảm chất lượng
Đội ngũ nhà giáo GDNN tăng nhanh về số lượng , chất lượng, từng bước đạt chuẩn về trình độ đào tạo, kỹ năng nghề, năng lực sư phạm; một bộ phận nhà giáo dạy các nghề trọng điểm trình độ quốc tế được đào tạo kỹ năng tại nước ngoài. Trên 50% số nhà giáo trong các trường trung cấp và cao đẳng có thể dạy tích hợp (cả lý thuyết và thực hành nghề). Đã hình thành được mạng lưới cơ sở đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm GDNN cho đội ngũ nhà giáo ; đội ngũ cán bộ quản lý GDNN có trình độ chuyên môn phù hợp, được quan tâm, đào tạo, bồi dưỡng nâng cao về trình độ nghiệp vụ, kiến thức, kỹ năng quản lý ; từng bước đạt chuẩn. Trong đó, một bộ phận cán bộ quản lý đã được đào tạo, bồi dưỡng trong nước theo các chương trình quốc tế và đào tạo tại nước ngoài (Úc, Đức, Hàn Quốc, Mỹ…) .
Các cơ sở GDNN đã phối hợp với các doanh nghiệp xây dựng chương trình đào tạo trên cơ sở Chuẩn đầu ra , bảo đảm linh hoạt hơn, phù hợp hơn với thực tiễn sử dụng nhân lực của doanh nghiệp; đã phối hợp với các tổ chức quốc tế thí điểm phát triển các chương trình đào tạo tiên tiến của một số nước phát triển như Pháp, Bỉ, Đức, Thụy Sỹ..., đồng thời, đã chuyển giao các bộ chương trình đào tạo tiên tiến của Úc, Cộng hòa Liên Bang Đức, Pháp và Hàn Quốc . Nhiều cơ sở GDNN đã triển khai các chương trình đào tạo chất lượng cao, chương trình liên kết với các cơ sở đào tạo nước ngoài .
Phương pháp đào tạo từng bước được đổi mới, ứng dụng công nghệ đào tạo và công nghệ thông tin vào hoạt động dạy và học; chuyển hướng dạy thụ động sang hướng tích cực, chủ động của người học và hướng tới cá thể hóa; bước đầu thực hiện chuyển đổi số trong quản lý, tổ chức đào tạo . Từ năm 2019 do ảnh hưởng của dịch COVID-19, hoạt động GDNN đã thực hiện số hóa, chuyển đổi việc tuyển sinh đào tạo sang hình thức trực tuyến kết hợp trực tiếp;
Cơ sở vật chất, thiết bị đào tạo được đầu tư theo danh mục thiết bị đào tạo tối thiểu và chương trình đào tạo ; một số ngành, nghề trọng điểm được đầu tư thiết bị đồng bộ, hiện đại, tiên tiến phù hợp với công nghệ sản xuất của doanh nghiệp trong bối cảnh CMCN 4.0. Việc ban hành định mức kinh tế - kỹ thuật  cho các ngành, nghề góp phần bước đầu đổi mới cơ chế quản lý tài chính từ giao kinh phí hoạt động thường xuyên sang đặt hàng đào tạo theo đầu ra cho các cơ sở GDNN; nhiều cơ sở GDNN được đầu tư trang thiết bị đồng bộ, tiếp cận tiêu chuẩn khu vực, quốc tế.
Đào tạo chất lượng cao được đẩy mạnh, đã tổ chức đào tạo thí điểm theo các bộ chương trình chuyển giao  từ Úc, CHLB Đức. Sau khi ra trường, sinh viên được cấp 02 bằng tốt nghiệp (bằng Việt Nam và bằng của nước chuyển giao), có khả năng tham gia vào thị trường lao động quốc tế. 
Gắn kết giữa GDNN với thị trường lao động và việc làm bền vững có chuyển biến tích cực, nhìn nhận của doanh nghiệp về GDNN có thay đổi trong việc hợp tác giữa doanh nghiệp với cơ quan quản lý nhà nước các cấp và cơ sở GDNN. Cơ sở GDNN và doanh nghiệp đã có nhiều hình thức, mô hình hợp tác đa dạng, phong phú; gắn kết giữa đào tạo và giải quyết việc làm cho người học sau tốt nghiệp.
d) Về đào tạo nghề cho thanh niên hoàn thành nghĩa vụ quân sự, nghĩa vụ công an, thanh niên tình nguyện hoàn thành nhiệm vụ thực hiện chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2015 - 2020
Ngày 09/7/2015, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 61/2015/NĐ-CP quy định về chính sách hỗ trợ tạo việc làm và Quỹ quốc gia về việc làm, trong đó đối với việc hỗ trợ đào tạo nghề cho thanh niên đã được quy định rất cụ thể. Thực hiện nhiệm vụ được giao, ngày 28/12/2016, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã ban hành Thông tư số 43/2016/TT-LĐTBXH hướng dẫn thực hiện chính sách hỗ trợ đào tạo nghề cho các đối tượng quy định tại Điều 14 Nghị định số 61/2015/NĐ-CP ngày 09/7/2015 của Chính phủ về chính sách hỗ trợ tạo việc làm và Quỹ quốc gia về việc làm.
Qua báo cáo của các địa phương, thanh niên sau khi được đào tạo nghề trình độ sơ cấp theo quy định của Thông tư số 43/2016/TT-LĐTBXH đều tìm kiếm được việc làm phù hợp, gia tăng thu nhập cho bản thân và gia đình. 
Tổng hợp theo báo cáo của 41/63 địa phương, kết quả đào tạo nghề cho thanh niên trong giai đoạn 2015 - 2020 cho thấy có tổng số 156 cơ sở GDNN có tham gia đào tạo nghề cho thanh niên; tổng số thẻ tiếp nhận: 241.866 thẻ ; tổng số ngành nghề đào tạo là 42 nghề (theo quy định mức hỗ trợ tối đa cho 1 thẻ học nghề là 12 tháng tiền lương tối thiểu, qua tổng hợp mức hỗ trợ kinh phí bình quân khoảng 10 - 12 triệu/thẻ) (Phụ lục V, Phụ lục VII kèm theo).
đ) Về chất lượng và hiệu quả GDNN
Chất lượng và hiệu quả GDNN từng bước được nâng lên, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu sử dụng lao động của doanh nghiệp và thị trường lao động. Kỹ năng nghề của người học được tăng cường, khoảng 80% người tốt nghiệp đã có việc làm phù hợp ngành nghề và trình độ đào tạo hoặc tự tạo việc làm, tham gia vào hầu hết các lĩnh vực của nền kinh tế (tỷ lệ lao động nông thôn có việc làm sau đào tạo đạt 89,3%, vượt 9,3%). Ở một số nghề (nghề Hàn, Cơ điện tử, Viễn thông, Logistic, Du lịch, Dầu khí…), kỹ năng nghề của lao động Việt Nam đáp ứng được yêu cầu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và có thể đảm nhận nhiều vị trí công việc phức tạp mà trước đây phải do chuyên gia nước ngoài thực hiện. 
Theo đánh giá của Diễn đàn Kinh tế thế giới - WEF (2019), chất lượng đào tạo nghề của Việt Nam đã tăng 13 bậc trong trụ cột kỹ năng . Trong các cuộc thi tay nghề khu vực và thế giới, đoàn Việt Nam đã đạt thứ hạng cao, chất lượng đào tạo nghề bước đầu được khẳng định ở tầm khu vực và thế giới .
e) Về nguồn lực tài chính cho GDNN
Nguồn lực đầu tư cho GDNN tiếp tục được tăng cường và đa dạng hóa. Giai đoạn 2012-2019, ngân sách nhà nước chi cho GDNN chiếm bình quân khoảng 8% chi thường xuyên ngân sách nhà nước cho lĩnh vực giáo dục, đào tạo và dạy nghề . Ngân sách nhà nước ưu tiên đầu tư cho các vùng khó khăn, vùng núi, hải đảo, vùng sâu, vùng xa theo hướng tăng dần (từ 2017 đến nay định mức phân bổ chi sự nghiệp đào tạo và GDNN, tùy theo từng vùng được điều chỉnh tăng bình quân 1,76 lần so với giai đoạn 2011-2016 ); đã huy động nguồn lực xã hội từ doanh nghiệp, các tổ chức cá nhân đầu tư phát triển GDNN. 
4. Về công tác chủ trì, phối hợp trong đào tạo nghề trong thanh niên
Trong giai đoạn 2011- 2020, được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, sự hỗ trợ của các cấp, các ngành, các tổ chức xã hội - nghề nghiệp, các địa phương và người dân, “Giáo dục nghề nghiệp có nhiều chuyển biến”   và có bước phát triển mới đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của thị trường lao động; hệ thống pháp luật được hình thành tương đối toàn diện, tạo hành lang pháp lý điều chỉnh hoạt động GDNN; thống nhất quản lý nhà nước về GDNN; mạng lưới cơ sở GDNN phát triển đa dạng, phủ khắp các vùng, miền, các ngành kinh tế; các điều kiện đảm bảo chất lượng được tăng cường, quy mô đào tạo tăng, chất lượng đào tạo và hiệu quả đào tạo được cải thiện; nhận thức của xã hội và người lao động về giá trị kỹ năng nghề thay đổi theo hướng tích cực. Chính vì vậy, GDNN đã góp phần quan trọng đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực trực tiếp cho các hoạt động kinh tế - xã hội, góp phần nâng cao năng suất lao động và năng lực cạnh tranh quốc gia, việc làm bền vững, giảm đói nghèo và an sinh xã hội. GDNN đã khẳng định được vai trò, vị trí trong phát triển nguồn nhân lực quốc gia. Niềm tin của người lao động, mong đợi của cộng đồng doanh nghiệp, kỳ vọng của xã hội và nhất là của thanh niên đối với GDNN đã bước đầu có chuyển biến tích cực.
Trong quá trình xây dựng cơ chế, chính sách và triển khai, tổ chức thực hiện các cơ chế, chính sách về GDNN, đào tạo nghề cho thanh niên, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội luôn có sự phối với các cơ quan, tổ chức có liên quan ở trung ương, địa phương, điển hình như: Ủy ban Văn hóa, Giáo dục của Quốc hội, Ban Tuyên giáo Trung ương, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Khoa học Công nghệ, Bộ Thông tin và Truyền thông, Hội Khuyến học, Hiệp hội GDNNN và nghề công tác xã hội Việt Nam, các hội nghề nghiệp .v.v... Nhiều hoạt động phối hợp đã trở thành hoạt động thường xuyên, liên tục; có chương trình, kế hoạch phối hợp hàng năm; đưa vào chương trình công tác năm của các cơ quan, đơn vị.
II. Một số hạn chế và nguyên nhân
1. Một số hạn chế
- Mặc dù quy mô đào tạo tăng nhưng chưa tương xứng với lực lượng lao động và dân số trong độ tuổi lao động của Việt Nam. Đến hết năm 2020, còn khoảng 75,4% trong tổng số hơn 54 triệu lao động chưa có văn bằng, chứng chỉ, phải làm những công việc giản đơn, năng suất lao động thấp.
- Tỷ lệ phân luồng học sinh sau THCS, trung học phổ thông (THPT) vào GDNN chưa cao, không đạt được mục tiêu đặt ra trong Chỉ thị số 10-CT/TW ngày 5/12/2021 của Bộ Chính trị và Quyết định số 522/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ . 
- Tỷ lệ qua đào tạo của lao động khu vực thành thị đạt 40,8%, khu vực nông thôn đạt 16,6%; tỷ lệ lao động qua đào tạo có văn bằng chứng chỉ ở khu vực thành thị đạt 39,9%, trong khi ở khu vực nông thôn đạt 16,3%. Cơ cấu ngành, nghề đào tạo chưa phù hợp với nhu cầu của thị trường lao động và nhu cầu người học theo từng vùng, miền, địa phương.
- Ở một số ngành nghề, kỹ năng của người học chưa phù hợp hoặc chưa đáp ứng với nhu cầu kỹ năng của người sử dụng lao động. Một số kỹ năng cần thiết như kỹ năng xã hội, kỹ năng sống, kỹ năng sáng tạo, kỹ năng số, kỹ năng cảm xúc..., khả năng tự học của người tốt nghiệp chưa thích ứng với yêu cầu của thị trường lao động, cơ hội phát triển nghề nghiệp của người tốt nghiệp còn hạn chế; quy mô đào tạo chất lượng cao còn nhỏ, chưa đáp ứng được yêu cầu của các ngành kinh tế mũi nhọn và yêu cầu nâng cao chất lượng cạnh tranh của nguồn nhân lực trong bối cảnh hội nhập và cạnh tranh cao.
- Đào tạo nghề nghiệp cho các đối tượng yếu thế, người dân tộc thiểu số, phụ nữ chưa được quan tâm đúng mức, tỷ lệ người dân tộc thiểu số tham gia học nghề còn rất thấp và chủ yếu là tham gia khóa học nghề dưới 3 tháng. Nhiều đối tượng yếu thế khác như người khuyết tật, người dân tộc thiểu số ít người, người sau cai nghiện, người mãn hạn tù… mặc dù đã có những chính sách hỗ trợ nhưng cơ hội tiếp cận với các dịch vụ GDNN còn hạn chế.
- Sự hợp tác giữa các cơ sở GDNN của Việt Nam với các cơ sở đào tạo của một số quốc gia còn hạn chế do các chương trình đào tạo, phương pháp đào tạo và tổ chức hoạt động đào tạo chưa tương thích, khó chuyển đổi; sự dịch chuyển lao động giữa Việt Nam và các nước còn chậm. 
2. Nguyên nhân 
a) Nguyên nhân khách quan
- Nền kinh tế Việt Nam phát triển chưa bền vững, còn nhiều hạn chế, lao động trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản hiện nay còn tỷ trọng lớn (chiếm tỷ lệ 65%); tỷ lệ lao động làm việc trong khu vực phi chính thức còn khá cao (chiếm khoảng 38% trong tổng số lao động có việc làm cả nước) . Đa số lao động trong các khu vực này là lao động giản đơn, công việc có tính thời vụ, không ổn định nên giá trị gia tăng thấp, năng suất lao động thấp. Sự khác biệt về điều kiện kinh tế, xã hội giữa các vùng, miền ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả của công tác GDNN.
- Tâm lý xã hội còn coi trọng bằng cấp hơn kỹ năng nghề nghiệp. Nhận thức của nhiều cấp uỷ, chính quyền, cơ sở GDNN, doanh nghiệp và cộng đồng về vị trí, vai trò của GDNN, đào tạo nhân lực có kỹ năng nghề, nhất là nhân lực chất lượng cao chưa đầy đủ; chưa coi đó là yếu tố cơ bản để nâng cao năng lực cạnh tranh và năng suất lao động.
- Hiệu quả tham gia của doanh nghiệp, khối tư nhân, các tổ chức xã hội - nghề nghiệp vào hoạt động GDNN chưa cao, còn mang tính hình thức, chưa có cơ chế hợp tác phù hợp. Tỷ lệ doanh nghiệp hợp tác với cơ sở GDNN thấp chỉ có khoảng 9,15% , trong đó doanh nghiệp vừa và nhỏ, sử dụng ít lao động chiếm tỷ lệ lớn.
- Nguồn lực cho GDNN chưa bảo đảm cho tiến trình tăng quy mô và chất lượng đào tạo. Chi từ Ngân sách nhà nước cho GDNN còn chiếm tỷ lệ thấp trong tổng chi ngân sách nhà nước cho giáo dục đào tạo và đào tạo nghề. Cơ cấu chi và phương thức phân bổ nguồn lực chưa phù hợp, chậm đổi mới; chưa gắn kết, lồng ghép các nguồn lực trong các chiến lược, chương trình, dự án của các ngành, lĩnh vực.
b)  Nguyên nhân chủ quan 
- Năng lực thể chế chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển GDNN; các chính sách liên quan tới người học, người dạy, cơ sở GDNN, doanh nghiệp tham gia GDNN, người lao động… chậm đổi mới. Một số chính sách về phát triển GDNN quy định trong Luật GDNN chưa được triển khai hiệu quả như: Chính sách hướng nghiệp, phân luồng; chính sách phổ cập nghề cho thanh niên; chính sách ưu tiên ngân sách nhà nước cho GDNN...;
- Quản lý nhà nước về GDNN chưa đáp ứng được yêu cầu chuyển đổi sang các mô hình quản trị nhà nước hiện đại, ứng dụng công nghệ, chuyển đổi số, trí tuệ nhân tạo…; đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước về GDNN, nhất là cấp tham mưu ở địa phương chưa chuyên nghiệp, ít về số lượng và hạn chế về năng lực chuyên môn. 
- Năng lực quản trị các cấp chưa theo kịp yêu cầu của thực tiễn và xu hướng phát triển GDNN; tính mở và linh hoạt, thích ứng của hệ thống chưa cao, chưa tạo điều kiện thuận lợi cho người học, đặc biệt là các đối tượng yếu thế tiếp cận GDNN. Mạng lưới cơ sở GDNN còn dàn trải, chồng chéo và trùng lặp ngành nghề đào tạo, chưa gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội ở một số vùng, địa phương . 
- Số lượng, cơ cấu và chất lượng đội ngũ nhà giáo chưa đáp ứng yêu cầu đổi mới GDNN; kỹ năng nghề, nghiệp vụ sư phạm, phát triển chương trình, giáo trình, phương pháp đào tạo, năng lực ngoại ngữ, tin học, nghiên cứu khoa học và công nghệ… của một bộ phận đội ngũ nhà giáo còn hạn chế.
IV. Nhiệm vụ, giải pháp đào tạo nghề cho thanh niên đáp ứng yêu cầu tình hình mới 
Thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng nhằm tạo động lực cho thanh niên xung kích trong học tập, lao động, sáng tạo, khởi nghiệp, làm chủ các kiến thức khoa học, công nghệ hiện đại; tích cực học nghề, lập thân, lập nghiệp; trước bối cảnh mới, nhất là sự phát triển của khoa học công nghệ, tác động của cuộc CMCN 4.0 và hội nhập quốc tế, việc phát triển GDNN, đào tạo nghề cho thanh niên tập trung vào một số nhiệm vụ giải pháp chính sau:
1. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật, nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về GDNN
Hoàn thiện chính sách cho nhà giáo, cán bộ quản lý GDNN, chính sách học nghề cho thanh niên, cơ sở GDNN và doanh nghiệp khi tham gia hoạt động GDNN; hoàn thiện cơ chế, chính sách nhằm đẩy mạnh phân luồng học sinh sau phổ thông vào GDNN và từng bước thực hiện phổ cập nghề cho thanh niên; thu hút người học thuộc các lĩnh vực, ngành, nghề trọng điểm, ngành, nghề nặng nhọc, độc hại, văn hóa nghệ thuật, thể dục thể thao, sức khỏe... và các đối tượng chính sách; tạo điều kiện thuận lợi cho thanh niên lao động tự do, thanh niên lao động thất nghiệp hoặc có nguy cơ thất nghiệp do tác động của cách mạng khoa học công nghệ, thiên tai, dịch bệnh v.v... được tham gia học nghề; hỗ trợ vay vốn khởi nghiệp cho thanh niên qua đào tạo nghề nghiệp.
Có cơ chế, chính sách đủ mạnh, thu hút các nhà đầu tư, doanh nghiệp, người sử dụng lao động tích cực tham gia hoạt động GDNN; chính sách đối với các cơ sở GDNN đạt tiêu chuẩn kiểm định chất lượng hoặc được công nhận là trường chất lượng cao; hoàn thiện chính sách đối với cơ sở GDNN đào tạo nghề cho các đối tượng đặc thù và lĩnh vực, ngành, nghề đặc thù;
Sắp xếp, tổ chức mạng lưới cơ sở GDNN theo hướng mở, linh hoạt, hiện đại, dễ tiếp cận, đa dạng về loại hình, phân bổ hợp lý về cơ cấu ngành nghề, trình độ, vùng miền; sắp xếp, chuyển các cơ sở GDNN thuộc các bộ, ngành chủ quản về bộ quản lý ngành, lĩnh vực để thống nhất đầu mối quản lý; nâng cao năng lực hoạt động, đáp ứng nhu cầu nhân lực qua đào tạo nghề nghiệp nhất là nhân lực chất lượng cao; khuyến khích phát triển cơ sở GDNN tư thục, có vốn đầu tư nước ngoài, cơ sở GDNN trong doanh nghiệp; hình thành các trung tâm quốc gia đào tạo và thực hành nghề chất lượng cao, trung tâm vùng đào tạo và thực hành nghề chất lượng cao, trường tiếp cận trình độ các nước phát triển trong nhóm G20, trường tiếp cận trình độ các nước ASEAN-4, trường chất lượng cao.
Nâng cao trách nhiệm, tạo động lực và tính tự chủ gắn với trách nhiệm giải trình, phát huy vai trò người đứng đầu trong các cơ sở GDNN và cơ quan quản lý các cấp; đổi mới công tác thanh tra, kiểm định, đánh giá chất lượng GDNN.
2. Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo công tác thông tin, tuyên truyền nâng cao nhận thức của xã hội về GDNN
Tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo trong thông tin và truyền thông, tạo sự chuyển biến về nhận thức, sự đồng thuận và huy động sự tham gia tích cực, có hiệu quả của toàn xã hội đối với việc đổi mới, phát triển GDNN.
Hình thành hệ sinh thái truyền thông GDNN với sự tham gia của cả hệ thống chính trị, chính quyền các cấp, cơ sở GDNN, người học, người sử dụng lao động và người dân nhằm nâng cao nhận thức của xã hội về ý nghĩa, tầm quan trọng của GDNN, đào tạo nghề cho thanh niên đối với việc phát triển nhân lực phục vụ sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; đổi mới, đa dạng hoá các hoạt động truyền thông; xây dựng các chuyên trang, chuyên mục, kênh, sóng phát thanh, truyền hình riêng về GDNN, đào tạo nghề cho thanh niên; xây dựng chương trình truyền thông quốc gia chia sẻ thành công của những người tốt nghiệp các trình độ GDNN, các mô hình đổi mới, sáng tạo, khởi nghiệp thành công của thanh niên trong GDNN.
3. Đẩy nhanh chuyển đổi số; hiện đại hóa cơ sở vật chất thiết bị và đổi mới chương trình, phương thức đào tạo
Rà soát, sửa đổi, bổ sung hệ thống văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực GDNN đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số, đồng thời với nâng cao nhận thức về chuyển đổi số, nâng cao năng lực số của đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý các cấp nhằm nhanh chóng thực hiện chuyển đổi số trong hệ thống GDNN; đầu tư, phát triển hạ tầng số, hệ thống cơ sở dữ liệu bảo đảm đồng bộ với hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia, cơ sở dữ liệu chuyên ngành khác góp phần hình thành cơ sở dữ liệu mở quốc gia; xây dựng các nền tảng số có khả năng triển khai dùng chung và hỗ trợ dạy học trực tuyến trong GDNN; phát triển kho học liệu số ở tất cả các trình độ, ngành nghề đào tạo, dùng chung toàn ngành và liên kết với quốc tế. 
Chuẩn hóa các bộ tiêu chuẩn trong GDNN tiếp cận chuẩn của các nước phát triển trong khu vực ASEAN và thế giới; hiện đại hóa cơ sở vật chất, thiết bị đào tạo của cơ sở GDNN, phù hợp với công nghệ sản xuất của doanh nghiệp, định hướng phân tầng chất lượng và đặc thù các ngành, nghề đào tạo; tăng cường gắn kết với doanh nghiệp để khai thác, sử dụng thiết bị đào tạo tại doanh nghiệp; phát triển mô hình “nhà trường thông minh, hiện đại”; đầu tư nâng cấp các phòng thí nghiệm, xưởng thực hành ảo, thiết bị ảo ở những ngành, nghề phù hợp.
Phát triển chuẩn đầu ra; đổi mới nội dung chương trình đào tạo theo hướng mở, linh hoạt, liên thông, đáp ứng chuẩn đầu ra; phát triển chương trình đào tạo cho người lao động trong các doanh nghiệp theo hình thức vừa làm vừa học ở trình độ trung cấp, cao đẳng; đa dạng hóa phương thức tổ chức đào tạo với sự ứng dụng mạnh mẽ của công nghệ thông tin; chú trọng đào tạo lại, đào tạo thường xuyên cho người lao động, đào tạo cho lao động di cư.
Tăng cường đào tạo toàn diện, chú trọng đến phát triển phẩm chất, hình thành các kỹ năng cốt lõi, kỹ năng mềm, kỹ năng số, trình độ ngoại ngữ, tuy duy sáng tạo, hội nhập cho thanh niên người học; đổi mới, đa dạng phương thức kiểm tra, đánh giá, có sự tham gia và thừa nhận của người sử dụng lao động; triển khai công nhận kỹ năng, trình độ của người học, người lao động đã tích lũy từ học tập và kinh nghiệm làm việc thực tế ở trong và ngoài nước.
4. Phát triển đội ngũ nhà giáo, nghệ nhân, chuyên gia, người dạy nghề và cán bộ quản lý trong GDNN
Hoàn thiện các chuẩn và chuẩn hóa nhà giáo, chú trọng kinh nghiệm thực tiễn và năng lực nghề nghiệp, đáp ứng yêu cầu đổi mới; xây dựng và triển khai cơ chế định kỳ thường xuyên đào tạo, bồi dưỡng năng lực chuyên môn, năng lực sư phạm cho nhà giáo; 
Đổi mới, nâng cao chất lượng, đa dạng hoá các chương trình, phương thức đào tạo, bồi dưỡng; đào tạo, bồi dưỡng cho nhà giáo giảng dạy ngành, nghề trọng điểm cấp độ ASEAN, quốc tế tại nước ngoài; thực hiện công nhận kỹ năng, trình độ đối với người có chuyên môn, nghiệp vụ ở ngành nghề khác chuyển sang làm giáo viên; phát triển mạnh đội ngũ nghệ nhân, chuyên gia, người dạy nghề tham gia đào tạo các cấp trình độ của GDNN; triển khai hiệu quả các cộng đồng, mạng lưới kết nối đội ngũ nhà giáo, nghệ nhân, chuyên gia và người dạy nghề.
Chuẩn hóa và định kỳ, thường xuyên đào tạo, bồi dưỡng chuẩn hóa, nâng cao năng lực cho cán bộ quản lý cơ sở GDNN, cán bộ quản lý nhà nước về GDNN các cấp, đặc biệt ở cấp địa phương; chú trọng kỹ năng quản lý, quản trị hiện đại và năng lực đổi mới, sáng tạo; hỗ trợ, khuyến khích phát triển đội ngũ cán bộ quản lý đào tạo tại doanh nghiệp; tăng cường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý nguồn các cấp tại nước ngoài.
5. Đẩy mạnh đào tạo nhân lực trẻ có kỹ năng nghề cao đáp ứng yêu cầu nhân lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Tập trung các nguồn lực phát triển mạng lưới cơ sở GDNN chất lượng cao, ngành, nghề trọng điểm; hình thành các trường chất lượng cao, các trung tâm quốc gia, trung tâm vùng đào tạo và thực hành nghề chất lượng cao có tính chất hạt nhân, dẫn dắt, lan tỏa và thực hiện liên kết vùng hiệu quả, đáp ứng nhu cầu nhân lực kỹ năng nghề cao của một số ngành, lĩnh vực trọng điểm, mũi nhọn.
Phát triển các chương trình đào tạo chất lượng cao gắn với các ngành nghề mới, ứng dụng công nghệ mới, công nghệ cao, kỹ năng mới, kỹ năng tương lai; ngành, nghề đáp ứng yêu cầu cuộc CMCN 4.0 tham chiếu theo các chuẩn khu vực và quốc tế; khuyến khích, tạo điều kiện phát triển các chương trình liên kết đào tạo với nước ngoài, các chương trình đào tạo kỹ năng nghề cao cho người nước ngoài tại Việt Nam; đánh giá, nhân rộng đào tạo theo các chương trình chuyển giao từ nước ngoài; áp dụng công nghệ đào tạo, nhân rộng các mô hình đào tạo tiên tiến của các nước phát triển; thí điểm mời giảng viên nước ngoài giảng dạy một số ngành, nghề chất lượng cao theo chuẩn quốc tế.
Đa dạng hóa, đổi mới căn bản phương thức tổ chức đào tạo theo tiếp cận phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất thanh niên; khai phóng tiềm năng, khơi dậy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và năng lực vận dụng kiến thức, kỹ năng của thanh niên vào thực tiễn nghề nghiệp; đổi mới phương thức đánh giá và công nhận tốt nghiệp có sự tham gia của doanh nghiệp đối với các chương trình chất lượng cao;
Xây dựng đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý GDNN phục vụ cho đào tạo chất lượng cao, đáp ứng theo chuẩn khu vực và quốc tế; nâng cao năng lực ngoại ngữ, năng lực ứng dụng công nghệ, năng lực đổi mới sáng tạo, tạo sự vượt trội về phẩm chất, năng lực cho đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý các cấp, thanh niên học sinh, sinh viên ở các chương trình đào tạo chất lượng cao; tăng cường trao đổi, giao lưu giữa các cơ sở GDNN chất lượng cao, chương trình chất lượng cao trong nước với các cơ sở GDNN ở các nước phát triển.
6. Tăng cường gắn kết GDNN với thị trường lao động và việc làm bền vững
Xây dựng và thực thi cơ chế hợp tác giữa Nhà nước, Nhà trường, Nhà doanh nghiệp, người sử dụng lao động, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp trong các hoạt động GDNN trên cơ sở hài hòa lợi ích và trách nhiệm xã hội; xây dựng các mô hình gắn kết GDNN với doanh nghiệp, hợp tác xã, cơ sở sản xuất, kinh doanh và thị trường lao động theo từng vùng, địa phương, phù hợp với từng nhóm đối tượng, trong đó chú trọng đối tượng đặc thù, lao động từ khu vực phi chính thức, lao động bị thất nghiệp hoặc có nguy cơ thất nghiệp.
Tăng cường gắn kết giữa cơ sở GDNN và các trung tâm dịch vụ việc làm, sàn giao dịch việc làm, hội chợ việc làm, trung tâm khởi nghiệp đổi mới sáng tạo; hỗ trợ thanh niên tìm việc làm sau tốt nghiệp; gắn kết đào tạo với việc đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng; tăng cường năng lực hệ thống đánh giá, công nhận và cấp chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia; thúc đẩy mạnh mẽ phong trào thi kỹ năng nghề ở các cấp; thí điểm thành lập một số hội đồng kỹ năng nghề/nhóm nghề trọng điểm;
7. Tăng cường nguồn lực và nâng cao hiệu quả đầu tư cho GDNN
Tăng ngân sách nhà nước cho GDNN hàng năm; ưu tiên phân bổ ngân sách cho GDNN trong các chương trình, dự án của quốc gia, ngành, địa phương.
Đa dạng hóa nguồn lực đầu tư cho GDNN, khuyến khích khu vực tư nhân tham gia GDNN; tăng cường nguồn thu sự nghiệp từ hoạt động sản xuất kinh doanh, hoạt động liên doanh liên kết và cho thuê tài sản công theo quy định của pháp luật; thúc đẩy sự hỗ trợ, tài trợ của các nước phát triển, các tổ chức quốc tế đầu tư cho GDNN; huy động và nâng cao hiệu quả sử dụng Quỹ Bảo hiểm thất nghiệp, nguồn tài chính công đoàn, nguồn tài chính của các tổ chức chính trị - xã hội, các quỹ hợp pháp khác để đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng kỹ năng cho người lao động.
Ưu tiên đầu tư đồng bộ cho các cơ sở GDNN chất lượng cao đặc biệt các cơ sở thực hiện chức năng đào tạo và thực hành vùng, quốc gia; cơ sở GDNN chuyên biệt; cơ sở GDNN tại các vùng đặc biệt khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, biên giới, hải đảo; ngành, nghề trọng điểm, kỹ thuật cao; nghề “xanh”; ngành, nghề đào tạo mới, kỹ năng tương lai; ngành, nghề đào tạo đặc thù.
Ngân sách nhà nước hỗ trợ cho các đơn vị sự nghiệp công lập trong lĩnh vực GDNN để tăng cường các điều kiện bảo đảm chất lượng, nâng cao chất lượng đào tạo đồng thời hỗ trợ trực tiếp cho thanh niên hộ nghèo, đối tượng chính sách khi sử dụng dịch vụ GDNN; chuyển từ hỗ trợ theo cơ chế cấp phát bình quân sang cơ chế Nhà nước đấu thầu, đặt hàng, giao nhiệm vụ cung cấp dịch vụ sự nghiệp công căn cứ vào chất lượng và số lượng đầu ra.
8. Đẩy mạnh nghiên cứu ứng dụng khoa học và chuyển giao công nghệ; khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo và hội nhập quốc tế
Tăng cường nghiên cứu khoa học GDNN theo hướng ứng dụng và chuyển giao công nghệ với sự tham gia của người học, nhà giáo, chuyên gia, nghệ nhân, người sử dụng lao động; gắn hoạt động đào tạo với chuyển giao công nghệ, thương mại hóa kết quả nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ; đẩy mạnh thực hiện nghiên cứu khoa học theo cơ chế đặt hàng; gắn kết các tổ chức nghiên cứu khoa học với nhà trường và doanh nghiệp.
Thúc đẩy tinh thần khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo cho thanh niên học nghề và các hoạt động hỗ trợ thanh niên học nghề khởi nghiệp, tự tạo việc làm; xây dựng không gian khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo trong các cơ sở GDNN và hệ sinh thái khởi nghiệp GDNN tại các vùng.
Mở rộng, nâng cao hiệu quả hợp tác toàn diện giữa Việt Nam và các nước, các tổ chức quốc tế trong lĩnh vực GDNN; đẩy mạnh đàm phán, ký kết, triển khai các thỏa thuận, chương trình hợp tác với đối tác quốc tế, doanh nghiệp đầu tư nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam trong việc hỗ trợ cơ sở GDNN, thanh niên học sinh, sinh viên nâng cao kỹ năng nghề nghiệp.
V. Kiến nghị, đề xuất
1. Với Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội
- Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung các cơ chế, chính sách mới hoặc bất cập trong các văn bản luật có liên quan đến GDNN, đào tạo nghề cho thanh niên, tạo điều kiện tốt nhất để thanh niên dễ dàng học nghề, lập thân, lập nghiệp.
- Tiếp tục quan tâm hơn nữa đến GDNN, nâng tỷ lệ chi cho GDNN trong tổng chi từ ngân sách nhà nước cho giáo dục đào tạo lên 15% - 16%.
- Có nghị quyết chuyên đề về hoàn thiện chính sách, pháp luật về phát triển GDNN, phát triển nguồn nhân lực trẻ chất lượng cao trong tình hình mới.
- Thực hiện giám sát chuyên đề về đào tao nghề cho thanh niên ở các bộ, ngành, địa phương, nhất là việc thực hiện chỉ tiêu phân luồng học sinh sau phổ thông vào GDNN theo Chỉ thị số 10-CT/TW ngày 5/12/2021 của Bộ Chính trị.
2. Với Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ
- Ưu tiên ban hành cơ chế, chính sách về đào tạo lại, đào tạo lại cho thanh niên thuộc đối tượng người dân tộc thiểu số, miền núi; bộ đội xuất ngũ; thanh niên nông thôn; thanh niên bị mất việc do đại dịch; thanh niên bị sa thải do đặc thù doanh nghiệp FDI; nhóm thanh niên đối tượng yếu thế (hoàn cảnh khó khăn, khuyết tật, trở về sau cai nghiện...), nhóm thanh niên là đối tượng đặc thù trong lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật, thể thao .v.v....
- Sửa đổi Nghị định 61/2015/NĐ-CP ngày 09/7/2015 của Chính phủ về chính sách hỗ trợ tạo việc làm và Quỹ quốc gia về việc làm trong đó:
 + Về đối tượng: Thanh niên được hỗ trợ đào tạo nghề trình độ sơ cấp không phân biệt hộ khẩu thường trú;
+ Về mức hỗ trợ đào tạo: Đề nghị giữ nguyên thẻ đào tạo nghề có giá trị tối đa bằng 12 tháng tiền lương cơ sở tại thời điểm đào tạo nghề và kéo dài thời gian sử dụng so với quy định hiện hành (đề xuất thời hạn 2 năm);
+ Về nguồn kinh phí đào tạo nghề trình độ sơ cấp: Kinh phí đào tạo cho thanh niên có hộ khẩu thường trú và học tại địa phương nào do địa phương đó đảm bảo; đối với thanh niên không có hộ khẩu tại địa phương đó ngân sách trung ương bổ sung cho ngân sách địa phương. 
- Sửa đổi, bổ sung chính sách tính dụng đối với học sinh, sinh viên (Quyết định 157/2007/QĐ-TTg ngày 27/9/2007 của Thủ tướng Chính phủ) theo hướng mở rộng chính sách vay vốn cho tất cả các đối tượng là thanh niên học nghề có nhu cầu vay vốn trang trải kinh phí cho việc học tập (hiện nay về tín dụng đối với học sinh, sinh viên chỉ quy định đối với đối tượng nghèo, cận nghèo, mồ côi, gặp khó khăn về tài chính do tai nạn, bệnh tật, thiên tai, hỏa hoạn, dịch bệnh).
- Có lộ trình cụ thể để thực hiện chính sách phổ cập nghề cho thanh niên theo quy định của Luật Giáo dục nghề nghiệp (miễn giảm học phí cho người tốt nghiệp THPT đi học cao đẳng; hiện nay mới có chính sách miễn học phí đối với người tốt nghiệp THCS học tiếp lên trình độ trung cấp học phí ). 
- Có chính sách thu hút, miễn giảm học phí cho thanh niên học một số ngành, nghề trọng điểm, mũi nhọn phục vụ cho phục hồi kinh tế sau đại dịch.
- Sớm phê duyệt Đề án thí điểm đào tạo trình độ cao đẳng cho học sinh tốt nghiệp THCS, làm cơ sở thực hiện tốt chính sách phân luồng thanh niên học sinh vào GDNN.
- Chỉ đạo các Bộ, ngành, địa phương quan tâm, ưu tiên phát triển GDNN coi đây là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, góp phần thực hiện đột phá chiến lược nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhằm tăng năng suất lao động và năng lực cạnh tranh quốc gia trong tình hình mới; đẩy mạnh việc phân luồng nhằm đạt được các mục tiêu trong Chỉ thị 10-CT/TW của Bộ Chính trị và Quyết định 522/QĐ-TTg ngày 14/5/2018 của Thủ tướng Chính phủ; 
- Chỉ đạo Bộ Giáo dục và Đào tạo chia sẻ cơ sở dữ liệu tuyển sinh, tốt nghiệp THCS, THPT hàng năm cho để các cơ sở GDNN khai thác, góp phần nâng cao hiệu quả nguồn lực xã hội; khẩn trương ban hành Thông tư quy định khối lượng kiến thức văn hóa THPT, việc giảng dạy chương trình giáo dục thường xuyên cấp THPT trong các cơ sở GDNN, tạo điều kiện tốt nhất cho thanh niên học sinh vừa học nghề, vừa học văn hóa THPT ngay tại cơ sở GDNN;
- Giao Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội chủ trì, chịu trách nhiệm quản lý, phân bổ nguồn lực và triển khai thực hiện đào tạo nghề cho lao động nông thôn giai đoạn 2021 - 2025 (cả đào tạo nghề nông nghiệp và đào tạo nghề phi nông nghiệp) gắn với trách nhiệm quản lý nhà nước và trách nhiệm trưởng Ban chỉ đạo trung ương thực hiện Đề án của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội theo quy định tại Quyết định số 46/2015/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, tránh tình trạng trùng lắp, chồng chéo như hiện nay;
- Tiếp tục duy trì, kiện toàn Ban chỉ đạo Trung ương để chỉ đạo triển khai công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn và xây dựng, triển khai thực hiện Đề án “Đổi mới, nâng cao chất lượng đào tạo nghề nông thôn” được nêu tại Nghị quyết số 50/NQ-CP về Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng.
3. Với các bộ, ngành liên quan
- Tiếp tục triển khai có hiệu quả các cơ chế, chính sách phát triển GDNN, đào tạo nghề cho thanh niên; tăng cường chuyển đổi số và đào tạo trực tuyến, chú trọng đào tạo lại và đào tạo thường xuyên lực lượng lao động trẻ để tạo chuyển biến mạnh mẽ về quy mô, chất lượng và hiệu quả của GDNN; bảo đảm thanh niên sau học nghề có kỹ năng chuyên môn, kỹ năng số, kỹ năng mềm, kỹ năng khởi nghiệp và ngoại ngữ… đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động;
- Đẩy mạnh thông tin, tuyên truyền, tạo sự chuyển biến về nhận thức, đồng thuận của xã hội về phát triển GDNN, đào tạo nghề cho thanh niên; vị trí, vai trò của lao động trẻ có kỹ năng nghề, nhằm huy động sự tham gia và nguồn lực của toàn xã hội, nhất là của doanh nghiệp trong việc đào tạo nghề cho thanh niên;
- Chỉ đạo rà soát, tổ chức, sắp xếp lại hệ thống cơ sở GDNN theo Nghị quyết của Trung ương và Chính phủ; nhanh chóng ổn định tổ chức, đa dạng hóa nguồn lực đầu tư, bảo đảm nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các cơ sở GDNN sau khi được sắp xếp lại; thúc đẩy phát triển cơ sở GDNN có năng lực tự chủ và hoạt động hiệu quả; tạo điều kiện cho thanh niên có nhiều các cơ hội học nghề;
- Chú trọng nội dung phát triển GDNN, đào tạo nghề cho thanh niên trong các kế hoạch, chương trình, đề án, dự án phát triển ngành, địa phương; ưu tiên phân bổ ngân sách cho GDNN, đào tạo nghề cho thanh niên trong tổng chi ngân sách nhà nước dành cho giáo dục, đào tạo và trong các chương trình, dự án của ngành, địa phương./.
 
  BỘ LAO ĐỘNG - THƯƠNG BINH VÀ XÃ HỘI