Cập nhật ngày: 10/06/2021

 Hiện nay, xã hội đã dần quen thuộc với khái niệm Cam kết chất lượng (Quality Level Agreement-QLA) hay Cam kết chất lượng dịch vụ (Service Level Agreement-SLA)trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Bởi vì chất lượng chính là yếu tố cốt lõi quyết định năng lực canh tranh của một cơ quan, đơn vị. Trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, cam kết chất lượng dịch vụ có thể dễ dàng được hiểu là một cam kết giữa nhà sản xuất, nhà cung cấp dịch vụ và khách hàng, trong đó các khía cạnh cụ thể của dịch vụ như: chất lượng dịch vụ, chất lượng sản phẩm, tính sẵn có, và trách nhiệm sẽ được thỏa thuận giữa nhà cung cấp dịch vụ và người sử dụng dịch vụ.Tương tự, trong lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp (GDNN), cam kết chất lượng có thể được hiểu một cách chung nhất là sự cam kết giữa cơ sở GDNN, người học và các bên liên quan (cơ quan quản lý nhà nước, phụ huynh của người học, thị trường lao động, các đơn vị sử dụng lao động) về chất lượng đào tạo của nhà trường. Các chỉ số có thể nói lên chất lượng đào tạo bao gồm kết quả tuyển sinh, tỉ lệ tốt nghiệp, tỉ lệ tốt nghiệp có việc làm, mức độ hài lòng của người học về chất lượng đào tạo, mức độ hài lòng của đơn vị sử dụng lao động về người học tốt nghiệp từ cơ sở GDNN, v.v…

 

 

 

 Trường cao đẳng Kỹ thuật Công nghệ Bà Rịa Vũng Tàu làm việc với chuyên gia Vương Quốc Anh về kiểm định cơ sở giáo dục nghề nghiệp theo tiêu chuẩn Ofsted

Trước xu hướng chung của thế giới, quá trình toàn cầu hoá, hội nhập quốc tế đã mang lại nhiều cơ hội cho tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội trong đó có tác động lớn đến các vấn đề về lao động, việc làm, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phát triển thị trường lao động, tăng thu nhập của người lao động trong nhiều lĩnh vực, ngành nghề. Tuy nhiên, cũng đặt ra những thách thức đối với vấn đề lao động, việc làm và phát triển nguồn nhân lực nước ta: lực lượng lao động qua đào tạo nghề chiếm tỷ lệ còn thấp, chất lượng chưa đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động, đặc biệt là cho các ngành, lĩnh vực công nghệ cao, các loại hình dịch vụ hiện đại; tỷ lệ thất nghiệp còn cao; thu nhập của người lao động còn thấp so với các nước trong khu vực. Do vậy, Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ quá trình phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững là vấn đề sớm được đặt ra trong định hướng của Chính phủ. Chất lượng nguồn nhân lực và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là một trong những đột phá chiến lược để thực hiện phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011 – 2020, đồng thời tiếp tục được Chính phủ xác định là một trong ba khâu đột phá trong Dự thảo Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021 – 2030.

Thời gian qua, Chính phủ và các Bộ, Ngành từ trung ương đến địa phương quan tâm đầu tư mạnh mẽ vào hệ thống GDNN, hoạt động GDNN đã có thành tựu phát triển nổi bật. Đáng ghi nhận là nhận thức của xã hội, người dân, doanh nghiệp về GDNN đã có những chuyển biến tích cực; số lượng người tham gia vào GDNN ngày càng tăng; tỷ lệ người học sau tốt nghiệp có việc làm cao, thu nhập ổn định. Nhờ vậy, các cơ sở GDNN cũng mạnh dạn hơn trong việc cam kết chất lượng với người học cũng như các bên liên quan. Một số nội dung điển hình cam kết chất lượng mà các cơ sở GDNN đã thực hiện là: cam kết đảm bảo chuẩn đầu ra về kỹ năng nghề và kỹ năng mềm để người lao động đáp ứng được yêu cầu của xã hội, cam kết đảm bảo việc làm cho người học sau khi tốt nghiệp,…...

Các hoạt động cụ thể nhà trường cần thực hiện khi cam kết chất lượng:

Như đã đề cập, chất lượng chính là yếu tố cốt lõi quyết định năng lực canh tranh của một đơn vị. Đối với các cơ sở GDNN cũng vậy, chất lượng đào tạo là mục tiêu hàng đầu, là yếu tố có ý nghĩa quyết định sự tồn tại và phát triển của nhà trường. Việc đào tạo có chất lượng giúp nhà trường nâng tầm uy tín và thương hiệu, tăng năng lực và lợi thế canh tranh trong tuyển sinh, đào tạo. Chính vì vậy, các cơ sở GDNN cần cam kết chất lượng thông qua việc đẩy mạnh các hoạt động đảm bảo và nâng cao chất lượng đào tạo là nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt:

- Cam kết chất lượng trên cơ sở xây dựng và vận hành hiệu quả hệ thống đảm bảo chất lượng:

Năm 2017, Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội ban hành Thông tư 28/2017/TT-BLĐTBXH quy định hệ thống bảo đảm chất lượng của cơ sở GDNN và Thông tư số 15/2017/TT-BLĐTBXH quy định tiêu chí, tiêu chuẩn kiểm định chất lượng GDNN, đây là cơ sở để các trường xây dựng, vận hành hệ thống bảo đảm chất lượng và thực hiện tự đánh giá chất lượng GDNN theo tiêu chí, tiêu chuẩn kiểm định chất lượng GDNN .

Việc xây dựng và vận hành hiệu quả hệ thống đảm bảo chất lượng là giúp cụ thể hóa Cam kết chất lượng và đảm bảo cho các cám kết chất lượng của cơ sở GDNN được thực thi một cách đầy đủ.

Cam kết chất lượng của trường, trước hết phải được khẳng định trong tầm nhìn, sự mạng, chính sách chất lượng của của trường, phải được sự đồng thuận và cam kết từ lãnh đạo, cán bộ quản lý đến người lao động toàn cơ sở, trong đó, đội ngũ nhà giáo đóng vai trò quan trọng trong cam kết nhằm đạt đến mục tiêu chung là bảo đảm chất lượng đào tạo. Cam kết chất lượng phải được cụ thể hóa thông qua mục tiêu chất lượng của trường và các đơn vị trực thuộc, phải được đảm bảo thực thi thông qua các kế hoạch thực hiện chi tiết và việc tuân thủ đúng các quy trình quản lý chất lượng của trường. Cam kết chất lượng phải được công bố công khai để người học, các bên liên quan và xã hội được biết.

Hằng năm, cơ sở GDNN phải chú trọng thực hiện tự đánh giá chất lượng: tự đánh giá hệ thống bảo đảm chất lượng, tự đánh giá chất lượng cơ sở GDNN và tự đánh gái chất lượng chương trình đào tạo; thường xuyên rà soát chu trình quản lý chất lượng PDCA (PDCA: Plan/ Kế hoạch; Do/ Thực hiện; Check/ Kiểm tra; Action/ Hành động cải tiến). Thông qua kết quả tự đánh giá hằng năm, cơ sở GDNN có thể phân tích thực trạng, các điểm mạnh, điểm yếu để từ đó xây dựng kế hoạch và lộ trình cải tiến chất lượng, triển khai các biện pháp khắc những phục tồn, cải thiện và nâng cao chất lượng đào tạo.

- Cam kết chất lượng thông qua chuẩn đầu ra và chương trình đào tạo:

Các trường phải gắn đào tạo với chuẩn đầu ra để vừa phát huy năng lực của sinh viên, vừa đáp ứng nhu cầu thực tế của thị trường lao động có tính cạnh tranh cao, muốn vậy phải xây dựng và công bố chuẩn đầu ra cho người học và xã hội được biết, đây là một cách thức cam kết của nhà trường đối với xã hội về việc đảm bảo chất lượng đào tạo.

Chuẩn đầu ra tương ứng với mỗi trình độ GDNN là sự công khai hóa các tiêu chí, tiêu chuẩn nhằm bảo đảm và khẳng định về chất lượng đào tạo nguồn nhân lực cả về kiến thức, kỹ năng, mức độ tự chủ và trách nhiệm, vị trí việc làm sau khi tốt nghiệp của người học. Chuẩn đầu ra là cơ sở để xây dựng chương trình, thiết kế nội dung và tổ chức các hoạt động đào tạo và cam kết về chất lượng đầu ra của quá trình đào tạo đó. Việc xây dựng chuẩn đầu ra cũng làm cơ sở cho việc đánh giá kết quả học tập của người học, đặc biệt là xác định và đánh giá những năng lực mà người học đạt được.

Trên cơ sở Khối lượng kiến thức tối thiểu và năng lực mà người học đạt được sau khi tốt nghiệp trình độ trung cấp, trình độ cao đẳng do Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội ban hành, các trường phải chủ động vận dụng để xây dựng, cụ thể hóa thành chuẩn đầu ra và chương trình đào tạo, phù hợp với đặc điểm, điều kiện thực tế của địa phương và của nhà trường nhưng vẫn đảm bảo khối lượng kiến thức và năng lực tối thiểu theo quy định.

Bên cạnh kiến thức và kỹ năng chuyên môn, khi xây dựng chuẩn đầu ra, chương trình đào tạo cần chú trọng các năng lực và phẩm chất rất cần thiết khác mà người học cần đạt được để đáp ứng tốt hơn yêu cầu công việc trong môi trường cạnh tranh và hội nhập quốc tế như: thái độ nghề nghiệp; cáckỹ năng giáo tiếp, ứng xử, làm việc nhóm, ra quyết định, báo cáo; năng lực ngoại ngữ, kỹ năng sử dụng công nghệ thông tin,….

Nhà trường phải xây dựng, biên soạn đầy đủ giáo trình và tài liệu phục vụ cho hoạt động học tập, nghiên cứu, giúp người học chủ động, tích cực tiếp thu tốt kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp.

Chuẩn đầu ra, chương trình và giáo trình đào tạo phải được định kỳ rà soát, điều chỉnh hàng năm để kịp thời bổ sung, cập nhật sự thay đổi và phát triển của kỹ thuật, công nghệ, nhằm giúp người học khi tốt nghiệp đi làm không bị bỡ ngỡ và có thể đáp ứng tốt yêu cầu của công việc.

- Cam kết chất lượng trên cơ sở đảm bảo về đội ngũ nhà giáo:

Các cơ sở GDNN phải xác định đội ngũ nhà giáo là yếu tố quan trong nhất quyết định chất lượng đào tạo của nhà trường, do đó phải luôn chú trọng xây dựng và phát triển đội ngũ nhà giáo; bố trí đội ngũ nhà giáo tham gia giảng dạy đảm bảo đủ về số lượng, đạt chuẩn về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ theo quy định, có khả năng đáp ứng tốt việc đào tạo giúp cho người học đạt được khối lượng kiến thức, kỹ năng, năng lực nghề nghiệp và các phẩm chất cần thiết đã được công bố ở chuẩn đầu ra.

Để thực hiện tốt điều này, các cơ sở GDNN phải có chính sách thu hút người có trình độ chuyên môn giỏi, đặc biệt là các kỹ sư đã có nhiều kinh nghiệm làm việc thực tế tại doanh nghiệp tham gia giảng dạy. Luôn chú trọng đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn và nghiệp vụ cho đội ngũ nhà giáo, nhất là bồi dưỡng cập nhật kỹ thuật, công nghệ mới của nghề, cập nhật phương pháp và công nghệ dạy học hiện đại từ các nước phát triển; tạo điều kiện để hàng năm có 100% nhà giáo giảng dạy chuyên môn nghề được đi thực tập, tham gia làm việc tại các doanh nghiệp để cập nhật kiến thức, công nghệ, phương pháp tổ chức quản lý sản xuất và kinh nghiệm thực tế.

Đặc biệt hội nhập quốc tế đã và đang đặt ra những yêu cầu cao hơn đối với người lao động Việt Nam, với tiêu chí tuyển dụng cao hơn đòi hỏi người học phải có nhiều kỹ năng ngoài chuyên môn như: kỹ năng giao tiếp, làm việc nhóm, kỹ năng báo cáo, trình độ tin học, khả năng ngoại ngữ,..... Như vậy, muốn đào tạo người học đáp ứng các yêu cầu này thì trước tiên đội ngũ nhà giáo phải được đào tạo, bồi dưỡng nâng cao về trình độ ngoại ngữ, tin học, năng lực hội nhập quốc tế và các kỹ năng mềm mềm cần thiếtnêu trên.

Đội ngũ nhà giáo phải sẳn sàng và luôn chủ động thay đổi, nâng cao năng lực của bản thân, không tự hài lòng với khả năng hiện tại, cùng đồng thuận với chính sách chất lượng của trường, trực tiếp cam kết và chịu trách nhiệm trước người học về chất lượng giảng dạy các môn học, mô đun, học phần và chất lượng các hoạt động do mình phụ trách.

- Cam chất lượng trên cơ sở đảm bảo về cơ sở vật chất, thiết bị đào tạo và các nguồn lực tài chính:

Cơ sở vật chất, thiết bị đào tạo là một trong ba yếu tố quan trọng quyết định chất lượng dạy và học, có ảnh hướng rất lớn đến việc thực hiện chuẩn đầu ra và chương trình đào tạo của trường. Do đó các cơ sở GDNN phải bố trí đầy đủ phòng học, xưởng thực hành, trang thiết bị đào tạo, nguyên vật liệu,….phục vụ cho hoạt động học tập của người học trên cơ sở đảm bảo tốt yêu cầu của chương trình đào tạo đã ban hành.

Ngoài việc đáp ứng đủ danh mục thiết bị đào tạo tối thiểu theo quy định của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, các trường cần chú trọng tranh thủ mọi nguồn lực để đầu tư, mua sắm trang thiết bị đào tạo đảm bảo hiện đại, phù hợp với thiết bị, công nghệ sản xuất thực tế tại các doanh nghiệp nhằm giúp người học tiếp cận kịp thời các tiến bộ của kỹ thuật, công nghệ để sau khi tốt nghiệp có đủ khả năng thích ứng tốt với công việc thực tế.

Phòng học, xưởng thực hành, trang thiết bị đào tạo,….phải được bố trí, sắp xếp và quản lý theo các tiêu chuẩn hiện đại, thường xuyên được bảo trì, bảo dưỡng, kiểm định và cập nhật để luôn sản sàng đáp ứng tốt cho hoạt động đào tạo.

Bố trí đủ, quản lý và sử dụng hiệu quả các nguồn lực tài chính(từ ngân sách, từ người học và từ các nguồn lực khác) để luôn luôn đảm bảo cho các hoạt động giảng dạy, học tập và rèn luyện được thực hiện một cách kịp thời và đạt kết quả tốt nhất.

- Cam kết chất lượng trên cơ sở tăng cường gắn kết doanh nghiệp vào hoạt động đào tạo và giải quyết việc làm cho người học:

Để rút ngắn khoảng cách giữa đào tạo và việc làm, góp phần nâng cao chất lượng và năng suất lao động, tăng năng lực cạnh tranh của quốc gia, nhiều giải pháp để thúc đẩy doanh nghiệp tham gia hoạt động GDNN nói chung và gắn kết doanh nghiệp và cơ sở GDNN nói riêng đã được triển khai mạnh mẽ, đặc biệt là từ năm 2018:

Tổng cục Giáo dục nghề nghiệp triển khai Kế hoạch tổ chức các hoạt động gắn kết GDNN với thị trường lao động, việc làm bền vững và an sinh xã hội theo Quyết định số 203/QĐ-TCGDNN ngày 29/03/2018 với mục tiêu nhằm tăng cường gắn kết giữa GDNN với thị trường lao động, việc làm bền vững và an sinh xã hội, nhất là gắn kết các cơ sở GDNN với các doanh nghiệp, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo, đáp ứng nhu cầu nhân lực lao động qua đào tạo cho sự phát triển kinh tế.

Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội và Tổng cục GDNN đãtổ chức ký kết hợp tác với các doanh nghiệp, tập đoàn lớn, các Hiệp hội nghề nghiệp, các tổ chức và đối tác quốc tế để phối hợp hoạt động gắn kết có hiệu quả và bền vững.

Ở địa phương, nhiều tỉnh, thành phố đã ban hành cơ chế, chính sách, đồng thời chỉ đạo, hướng dẫn các doanh nghiệp và cơ sở GDNNtrên địa bàn thúc đẩy hoạt động gắn kết doanh nghiệp trong đào tạo.

Tại nhiều cơ sở GDNN đã chủ động tăng cường hoạt động quan hệ doanh nghiệp thông qua các hoạt động liên kết đào tạo, nghiên cứu khoa học, giải quyết việc làm, xây dựng chuẩn đầu ra, chương trình và giáo trình đào tạo, mời doanh nghiệp tham gia giảng dạy kỹ năng mềm và tác phong công nghiệp cho người học.

Các trình độ GDNN luôn chú trọng đào tạo kỹ năng, chương trình đào tạo có thời gian học thực hành, thực tập rất lớn(chiếm từ 50 – 70% tổng thời gian thực học), ngoài việc học thực hành tại trường thì người học phải được học thực hành nâng cao, thực tập sản xuất hoặc tham gia làm việc thực tế tại doanh nghiệp nhằm nâng cao kỹ năng nghề, bổ sung những phần kỹ năng mà ở trường chưa thể đáp ứng tốt về thiết bị, đặc biệt là cơ hội cho người học làm quen với môi trường thực tế, học hỏi kinh nghiệm, khẳng định năng lực bản thân qua đó tìm kiếm cơ hội việc làm sau khi tốt nghiệp. Do đó các cơ sở GDNN cần tăng cường hợp tác với doanh nghiệp để giúp 100% người học được tham gia thực hành, thực tập tại doanh nghiệp, với nội dung phù hợp ngành/nghề đang học, người học phải được cán bộ kỹ thuật của doanh nghiệp hướng dẫn, theo dõi, quản lý và đánh giá kết quả đầy đủ theo quy định.

Các hoạt động này đã góp phần giúp cho cơ sở GDNN có chiến lược tuyển sinh, đào tạo và cải tiến chương trình, chất lượng đào tạo phù hợp với yêu cầu thực tế của thị trường lao động và thực hiện tốt công tác giải quyết việc làm cho người học sau khi tốt nghiệp.

Với những mục tiêu và nền tảng gắn kết doanh nghiệp trong hoạt động giáo dục nghề nghiệp đã tạo động lực cho các cơ sở GDNN cam kết mạnh mẽ: giải quyết việc làm 100% học sinh, sinh viên tốt nghiệp.

-Cam kết chất lượng trên cơ sở tăng cường hợp tác quốc tế:

Hội nhập quốc tế là một phần không thể thiếu trong hoạt động GDNN hiện nay, nhất là trong bối cảnh toàn cầu hóavà cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Hội nhập quốc tế giúp nền giáo dục Việt Nam tiệm cận với tiêu chuẩn và chất lượng của các nền giáo dục tiên tiến trên thế giới.

Chính phủ đã có nhiều Chủ trương, chính sách hội nhập quốc tế về giáo dục nói chung và GDNN nói riêng: Nghị định số 73/2012/NĐ-CP ngày 26-9-2012 của Chính phủ quy định về hợp tác, đầu tư của nước ngoài trong lĩnh vực giáo dục; Đề án hội nhập quốc tế về giáo dục và dạy nghề đến năm 2020 theo Quyết định số 2448/QĐ-TTg ngày 16-12-2013 của Thủ tướng Chính phủ đã xác định: “Đến năm 2020, phát triển một số cơ sở giáo dục đại học và dạy nghề đạt trình độ tiên tiến trong khu vực và thế giới; đổi mới nội dung, chương trình đào tạo và dạy nghề tiếp cận nền giáo dục tiên tiến của các nước; tiến tới công nhận văn bằng, chuyển đối tín chỉ và kỹ năng nghề giữa Việt Nam và các nước ASEAN và các nước khác trên thế giới...”. Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Đề án “Phát triển trường cao đẳng chất lượng cao đến năm 2025” với mục tiêu đến năm 2020 có khoảng 40 trường cao đẳng chất lượng cao, đến năm 2025 có khoảng 70 trường cao đẳng chất lượng cao đủ năng lực đào tạo một số ngành, nghề được các nước tiên tiến trong khu vực ASEAN hoặc quốc tế công nhận, đáp ứng yêu cầu nhân lực chất lượng cao cho hội nhập, phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

Thời gian qua, ngành GDNN Việt Nam đã triển khai hiệu quả nhiều dự án, chương trình về hợp tác quốc tế quan trọng như Dự án kỹ năng nghề Việt Nam của Canada, Chương trình đổi mới đào tạo nghề của Đức (GIZ), Chương trình gắn kết với doanh nghiệp của Đan Mạch, Dự án Aus4skills của Úc, Dự án Tăng cường lĩnh vực GDNN tại Việt Nam của JICA, Các dự án đào tạo thí điểm theo chương trình chuyển giao từ Úc, Đức…. Các hình thức liên kết đào tạo, nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ và tổ chức hội nghị, hội thảo khoa học, bồi dưỡng, trao đổi nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục nghề nghiệp và người học; trao đổi thông tin phục vụ hoạt động đào tạo, cung ứng chương trình đào tạo, tham gia các tổ chức giáo dục, hội nghề nghiệp khu vực và quốc tế cũng đã được Bộ Lao động – Thương binh Xã hội, Tổng cục giáo dục nghề nghiệp và các tổ chức, đối tác nước ngoài bắt đầu triển khai thực hiện một cách đa dạng hơn.

Rất nhiều cơ sở GDNN đã nhận thức được tầm quan trọng của hợp tác quốc tế trong đào tạo nghề. Bên cạnh các chương trình hợp tác được triển khai từ Chính phủ và các Bộ, Ngành, các cơ sở GDNN đã có sự tích cực, năng động tìm kiếm, kết nối vàxây dựng quan hệ hợp tác với các đơn vị, tổ chức nước ngoài trong các hoạt động đào tạo, nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ, phát triển chương trình đào tạo, chuyển giao chương trình đào tạo, xây dựng hệ thống đảm bảo chất lượng, hỗ trợ chuyên gia và thiết bị đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý và giảng viên, giao lưu trao đổi sinh viên,…. Với những hoạt động này đã góp phần nâng caochất lượng đào tạo, uy tín và thương hiệu của cơ sở GDNN.

- Cam kết chất lượng thông qua thực hiện tốt các dịch vụ hỗ trợ người học:

Các cơ sở GDNN cần thực hiện tốt các dịch vụ hỗ trợ cho người học để giúp người học hoàn thành chương trình đào tạo, đạt chuẩn đầu ra của trường một cách thuận lợi nhất.

Trước hết, cần xây dựng đội ngũ cố vấn học tập và bộ phận hỗ trợ sinh viên chuyên nghiệp, luôn làm việc với tình thần, trách nhiệm cao vì người học sẽ là động lực giúp người học vượt qua mọi khó khăn trong việc chinh phục mục tiêu học tập của mình.

Chú trọng thực hiện tốt các dịch vụ như ký túc xá, căn tin, chăm sóc ý tế, rèn luyện sức khỏe, vui chơi giải trícho người học; thực hiện đầy đủ các chế độ, chính sách về miễn giảm học phí, cấp học bổng khuyến khích học tập, khen thưởng theo quy định đối với người học; xây dựng môi trường học tập thân thiện và gắn kết lẫn nhau.

Những khó khăn, hạn chế trong triển khai các hoạt động cam kết chất lượng.

Khó khăn, hạn chế:

Thứ nhất, một số cơ sở GDNN chưa xác định hết vai trò, ý nghĩa, tầm quan trọng của “Cam kết chất lượng”, chưa coi “Cam kết chất lượng” là trách nhiệm chính của cơ sở GDNN, thậm chí chưa có “Cam kết chất lượng” với các bên liên quan.

Thứ hai, mặc dù có “Cam kết chất lượng” nhưng cơ sở GDNN chưa đảm bảo để thực thi đúng những nội dung như đã cam kết.

Nguyên nhân:

Trách nhiệm của cán bộ lãnh đạo, quản lý và đội ngũ giảng viên của cơ sở GDNN về “Cam kết chất lượng” còn thấp, chưa coi trọng nên nhận thức chưa đầy đủ về vai trò, ý nghĩa, tầm quan trọng của việc “Cam kết chất lượng”.

Các “Cam kết chất lượng” còn hình thức, thiếu khả thi; hoặc cam kết chưa đủ mạnh.

Cơ sở GDNN chưa quyết tâm và bố trí đủ nguồn lực để thực hiện đúng các nội dung đã cam kết

Chưa xây dựng được văn hóa chất lượng trong nhà trường, còn quen với lối suy nghĩ và cách làm cũ, chưa thích nghi với văn hóa cam kết chất lượng và thực thi các cam kết về chất lượng trong bối cảnh cạnh tranh, phát triển và hội nhập quốc tế.

Một số giải pháp thực hiện tốt “Cam kết chất lượng” từ chủ trương, chính sách đến các hoạt động cụ thể của nhà trường.

Một là, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, Tổng cục Giáo dục Nghề nghiệp cần ban hành quy định và hướng dẫn xây dựng, công bố và thực thi cam kết chất lượng để các cơ sở GDNN thực hiện thống nhất.

Hai là, Có chính sách khuyến khích những cơ sở GDNN có nhiều đột phá, thực hiện tốt cam kết chất lượng; đồng thời xử lý nghiêm các cơ sở GDNN thờ ơ, xem nhẹ hoặc không thực hiện hoặc thực hiện chưa đúng với cam kết chất lượng.

Ba là, tăng cường các hoạt động truyền thông, bồi dưỡng, tập huấn để giúp đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, giáo viên và người lao động của các cơ sở GDNN  thấy được vai trò, ý nghĩa, tầm quan trọng của cam kết chất lượng và việc thực thi cam kết chất lượng tại đơn vị.

Bốn là, các cơ sở GDNN phải dành đủ mọi nguồn lực cần thiết để xây dựng và thực hiện đúng cam kết chất lượng. Cam kết chất lượng của trường phải đưa ra được thông điệp “giá trị” mà cơ sở GDNN đem đến cho người học, cho doanh nghiệp và các bên liên quan./.

Trường Cao đẳng Kỹ thuật Công nghệ Bà Rịa - Vũng Tàu